About Me

My photo
Born in Vietnam to a Vietnamese mother and an American father, Jenny Do was raised in Saigon in extreme poverty and malnutrition before she finally arrived in the U.S. at age 18. Like a dry sponge dropped in a bucket of water, she flourished immediately within her new culture. A successful attorney, recognized artist and beloved community leader, Jenny is a multifaceted woman and relentless advocate of the underprivileged, who always puts her multiple talents to the service of the community. Upon being diagnosed with stage IV breast cancer in 2015, she was given 30-90 days to live. Determined to change the outcome, she declined the convention cancer treatments and sought for the alternatives. She has been in remission ever since. Awards and grants 2005: Unsolicited Belle Foundation grant 2006: Individual Grant for Anti-Human Trafficking work, CESR 2007: Woman of the Year, California Legislature of District 23 2007: Lifetime Achievement Award, City of San José 2011: Congressional Award, awarded by Zoe Lofgren 2016 California Woman of the Year - Trailblazer Award-California Legislators District 15

Tuesday, October 9, 2018

Tên thật là Đặng Thị Phương Thanh, luật sư Jenny Đỗ qua Mỹ theo diện con lai năm 1984, ở tuổi 18, và nhanh chóng trở thành một phụ nữ thành đạt.
Luật sư là việc làm. Còn về sở thích, Jenny Đỗ là một họa sĩ, một người mê làm việc thiện nguyện, và ghiền đấu tranh cho những người kém may mắn. Lý do khiến bà luôn quan tâm giúp người khác là vì hoàn cảnh sống thiếu thời rất nghiệt ngã, trong một xã hội mà những người con lai bị ruồng bỏ.
Trước khi trở thành luật sư năm 1997, việc làm đầu tiên của Jenny Đỗ là việc giúp đồng bào tỵ nạn cho Bộ Xã Hội Quận Hạt Santa Clara, rồi cho Sở Cảnh Sát thành phố San Jose. Những sinh hoạt từ thiện quanh vùng khiến bà được mệnh danh là 'con cưng' của cộng đồng người Việt ở Bắc California.
Trong suốt hơn 20 năm hành nghề luật, Jenny Đỗ tiếp tục là tình nguyện viên tích cực trong nhiều lãnh vực liên quan đến quyền lợi của những người thấp cổ bé miệng khắp nơi.
Được Jenny Đỗ giúp đỡ có thể là một người Việt tị nạn cần dich vụ pháp lý miễn phí, một nạn nhân nạn buôn người bị đưa qua Đài Loan, một người mua nhà trả góp đang gặp khó khăn với nhà băng đang có nguy cơ, hay một gia đình, hay các em học sinh nghèo ở Việt Nam, qua "Friends of Hue," tổ chức vô vụ lợi do bà quản lý.
Nhưng Jenny Đỗ không chỉ được những người cần sự giúp đỡ biết đến. Bà thường xuyên xuất hiện trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình tiếng Việt, và được đồng hương quý mến vì quan điểm ôn hòa, và nhất là luôn luôn đứng về phía quyền lợi của người thiếu may mắn.
Người Việt ở Ba Lan trong mắt người bản xứ
'Tôi bị năm gã bạo hành trong trại Ả Rập Saudi'
Bi hài nghề làm móng tay ở Anh
Năm 2007, ở tuổi 41, giữa lúc cuộc đời tưởng không thể đẹp hơn, Luật sư Jenny được bác sĩ cho biết bà bị ung thư vú giai đoạn thứ hai.
Lo lắng một thời gian, nhưng với bản chất năng động và đầy nghị lực, Jenny Đỗ lúc ấy, (có lẽ cũng như bao bệnh nhân khác), "hoàn toàn trao sinh mệnh cho bác sĩ," và một mặt làm những gì họ đề nghị: giải phẫu, hoá trị, rồi xạ trị, mặt khác tiếp tục theo đuổi nghề luật, vẽ tranh, leo núi, cũng như biết bao những công việc thiện nguyện và xã hội khác. Sau những đợt hóa và xạ trị, ung thư có dấu hiệu lui, Luật sư Jenny Đỗ được bác sĩ cho uống thuốc Tamoxifen trong năm năm, và tiếp tục cuộc sống của mình như trước giờ vẫn sống.
Năm 2015, Luật sư Jenny Đỗ được bác sĩ cho biết ung thư của bà đã đến giai đoạn 4, và khuyên nên chuẩn bị hậu sự, vì chỉ còn sống được từ 30 đến 90 ngày.
Bản quyền hình ảnhJENNY ĐỖ
Image caption
Cô bé Jenny Đỗ và thân mẫu (cùng đứng bên phải)
Bản quyền hình ảnhJENNY ĐỖ
Image caption
Jenny Đỗ với Oprah Winfrey 1988 khi được Oprah mời lên show
Kể lại giây phút nhận cái tin sét đánh này, bà Jenny Đỗ nói với BBC Tiếng Việt:
"Lúc đó đang đứng trước cửa một tiệm ăn, phôn của Jenny rớt xuống chân sau khi nói chuyện với bác sĩ. Jenny cúi xuống nhặt điện thoại mà không sao đứng lên được. Khi trở vào bàn ăn trong tiệm, nước mắt Jenny đã chan hòa trên mặt và người nhà Jenny ít nhiều đã đoán ra tin dữ vừa nhận được qua cú điện thoại."
"Và ý nghĩ đầu tiên của Jenny khi được báo tin là 'chuyện này không thể nào là sự thật' và điều kế tiếp là 'Ai sẽ lo cho mẹ lúc tuổi già và các con của Hội Friends of Huế sẽ không có ai nuôi." Bà nói tiếp.Không chấp nhận cái chết phần vì chưa sẵn sàng từ giã cõi đời, và phần vì còn có quá nhiều việc phải lo, Luật sư Jenny Đỗ cho biết bà dồn hết tâm huyết vào việc tìm hiểu căn bệnh ung thư quái ác này nói chung, và đặc tính ung thư của mình để tìm ra cách chữa trị. "Kết quả là kể từ năm 2016, tình trạng của Jenny đã được tuyên bố là Không có Bằng chứng Bị bệnh (NED - No Evidence of Disease). Thỉnh thoảng Jenny cố gắng ngừng sử dụng loại thuốc đang uống (Ibrance) để kiểm tra lại mọi thứ. Niềm tin của Jenny là phải học cách tự điều chỉnh sự phát triển ung thư của mình mà không cần sử dụng những loại thuốc này. Sử dụng kéo dài bất kỳ loại nào cuối cùng sẽ giết mình. Do đó, Jenny đã dành rất nhiều thời gian nghiên cứu các loại thuốc thay thế." Bà khoe.
Được hỏi về dự tính tương lai, Luật sư Jenny Đỗ không do dự:
"Tôi muốn cống hiến phần đời còn lại của mình để giúp đỡ những bệnh nhân ung thư khác. Tôi đã làm việc với ít nhất hơn 50 bệnh nhân ung thư cho đến nay. Đó là một quá trình đơn độc và nhiều khi cũng đau buồn. Bệnh nhân đến với tôi từ mọi tầng lớp xã hội và từ khắp nơi trên thế giới. Chúng tôi hỗ trợ nhau để phấn đấu với bệnh, và kéo dài cuộc sống. Tôi có thể giúp đỡ mọi người về mặt tinh thần nhưng cuộc chiến phải đến từ bên trong. Tôi không có một công thức nhiệm mầu vì mỗi người chúng ta rất khác nhau. Những gì tôi có thể truyền đạt là sức mạnh của tâm trí và sức mạnh của đức tin. Tôi có thể chia sẻ kinh nghiệm của riêng bản thân mình trong việc điều hướng hệ thống chăm sóc sức khỏe và quy trình điều trị của chính bệnh nhân."
Jenny Đỗ: 'Thắng ung thư làm tôi rõ hơn sứ mệnh của đời'
Và trả lời, một cách tỉ mỉ, những câu hỏi về kinh nghiệm đối phó với ung thư trong cuộc phỏng vấn với BBC dưới đây là một cách để luật sư Jenny làm tròn sứ mệnh giúp bệnh nhân ung thư của mình.
BBC: Kinh nghiệm chiến đấu ung thư của bà rất hi hữu. Bà bị ung thư vú giai đoạn hai năm 2006, và sau một thời gian chữa trị, tưởng là bệnh đã lui, nhưng đến năm 2015 lại bị bác sĩ cho biết là ung thư đã đến giai đoạn bốn, y học bó tay, chỉ còn sống được từ một đến ba tháng nữa, vậy bài học quan trọng nhất bà rút tỉa được là gì?
LS Jenny Đỗ: Vâng, vạch ra những sai lầm của tôi là điều hết sức hệ trọng, để giúp cho những người khác không lặp lại những sai lầm đó.
Khi bạn bị ung thư, là cơ thể của bạn cảnh báo bạn rằng lối sống bạn có trước đây, lối sống đã tạo ra ung thư đó, cần phải thay đổi. Tôi đã không làm như thế. Tôi hoàn thành tin tưởng vào bác sĩ và tiếp tục cuộc sống cũ.
Năm 2007, sau khi chữa hóa trị trong thời gian rất ngắn, rồi quay qua xạ trị, ung thư tạm lui, tôi được cho uống thuốc Tamozifen trong vòng 5 năm. Trong vòng năm năm đó, tôi sinh hoạt bình thường và tiếp tục sống cũ. Đó là một sai lầm rất lớn.
Năm 2015, khi được thông báo rằng tôi chỉ có 30-90 ngày để sống, tôi hỏi bác sĩ là có thể làm cho tôi. Họ lại nói có thể cho tôi cùng hoá trị mà tôi đã từ chối vào năm 2007, và dù vậy may ra cũng chỉ kéo dài đời sống được sáu tháng. Tôi quyết định khước từ cách chữa của họ, tự nghiên cứu ung thư của mình và làm khác đi. Tôi tin là nếu cứ tiếp tục cách sống cũ, có lẽ tôi hôm nay không có dịp trả lời phỏng vấn này.
Bản quyền hình ảnhJENNY ĐỖ
Image caption
Jenny Đỗ vào nhậm chức San Jose Art Commisioner, khoảng 2005 trước khi bị ung thư
Bản quyền hình ảnhJENNY ĐỖ
Image caption
Jenny Đỗ trong cuộc tranh đấu của Thượng nghị sĩ Janet Nguyễn cho Luật Bánh Chưng tại Hạ Viện California
BBC: Có phải bà đang khuyên là bệnh nhân ung thư không nên hoàn toàn nghe theo bác sĩ trong việc trị bệnh không? Tại sao?
LS Jenny Đỗ: Dĩ nhiên là bệnh nhân nên nghe bác sĩ, nhưng cũng cần phải có sự chủ động riêng. Nhờ đọc nhiều các thông tin khắp nơi và tham khảo với nhiều người, Jenny đã quyết tâm không sợ ung thư, mà phải làm cho ung thư nó sợ mình. Và vì đã trải qua bao cuộc thưa kiện trong quá khứ liên quan đến hệ thống y tế của Mỹ, Jenny đã không đặt hết trách nhiệm chữa trị vào các bác sĩ. Jenny hiểu rõ là trách nhiệm phải ở chính mình, và tuyệt đối không để những phức tạp trong hệ thống y tế của Mỹ làm Jenny phải căng thẳng hoang mang.
Khi biết mình bị ung thư, bất cứ ai trong chúng ta cũng sẽ bàng hoàng, xuống tinh thần, và có thể bị mất tự chủ. Từ đó chúng ta nhượng quyền làm chủ cơ thể mình cho các bác sĩ, các chuyên gia, và rồi bị lệ thuộc vào các phương pháp trị liệu phức tạp mà cơ thể chúng ta không quen thuộc. Các phương pháp đó không phải là không có hiệu quả, nhưng các hiệu quả đó thường chỉ tạm thời, và có nhiều di hại về sau. Mình nên cân nhắc và tính toán kỹ và lập ra chiến lược trước khi đi vào việc chữa trị căn bệnh này.
Kinh nghiệm của Jenny cho thấy rằng mình chỉ nên dùng các biện pháp khoa học này để tạm thời ngưng sự lan tràn của ung thư, rồi sau đó tìm những phương pháp lành mạnh khác để duy trì cơ thể không bị tấn công bởi ung thư tái lại.
BBC: Luật sư có thể giải thích rõ hơn về việc không hoàn toàn nghe bác sĩ không? Đây là một lãnh vực hết sức chuyên môn. Làm sao người bệnh biết phải nghe bác sĩ về phương diện gì, và không nghe bác sĩ về phương diện gì?
LS Jenny Đỗ: Câu hỏi này cần một giải thích dài dòng mới có thể trả lời thấu đáo: Năm 2007, Jenny đã trải qua hoá trị và xạ trị. Trong lúc đang nhận hoá trị, Jenny đọc quá trình nghiên cứu của hoá trị ung thư và được biết về một kết qủa nghiên cứu từ Anh Quốc cho biết là những trường hợp ung thư vú như Jenny có dương tính estrogen thì không hợp với các độc tố thường dùng trong hoá trị đó. Jenny đem thông tin này nói với bác sĩ chuyên khoa ung thư tại Kaiser. Ông ta hỏi lại Jenny: "Vậy cô có muốn tôi ngưng hoá trị cho cô không?" Jenny hỏi lại ông nghĩ sao về nghiên cứu này của bên Anh, thì ông bác sĩ nói không thể cho ý kiến được và cho Jenny quyền quyết định. Jenny lúc đó quá sức bàng hoàng vì nghĩ là người bác sĩ nên giúp Jenny quyết định cái gì tốt nhất cho mình. Cuối cùng ông bác sĩ nói thêm "những khám phá này còn qúa mới, muốn gì phải thông qua từ trên rồi đưa xuống chúng tôi mới áp dụng được. Vì vậy, tôi không thể quyết định được." Thế là Jenny ngưng hoá trị sau sáu tuần lễ bị thê thảm với nó. Đến năm 2015, khi ung thư đã đến giai đoạn bốn, đã lan ra xương, một người bác sĩ ung thư khác nói là Jenny cần hoá trị. Jenny hỏi lại là công thức của các chất độc này gồm có những gì thì được biết là tương tự như của năm 2007! Đó là lúc Jenny đòi chuyển qua bác sĩ mới và xin ý kiến thứ hai từ viện UCSF.
Một bước quan trọng trong quá trình chữa trị của Jenny là câu hỏi dương tính của estrogen là bao nhiêu phần trăm khi Jenny đến gặp bác sĩ tại UCSF. Bác sĩ ở UCSF cần biết rõ tỷ lệ này, và may cho Jenny là người bác sĩ bạn Mai Phương đã giúp Jenny tìm hiểu nó trước khi gặp bác sĩ tại UCSF. Khi biết là dương tính của estrogen Jenny là 100% thì bà nói ngay :"cô không chấp nhận chữa hoá trị là đúng rồi. Hormone therapy là đường đi đúng." Cũng may cho Jenny là bác sĩ mới tại Kaiser lại quen với bác sĩ ở UCSF và từ đó họ đan kết để đưa Jenny chữa theo hormone therapy. Một phương cách đơn giản hơn và không quá hại sức. Từ đó Jenny sử dụng thuốc Ibrance mỗi tháng để cách ly estrogen không liên kết được với tế bào ung thư. Tuy nhiên, điều không ai hiểu được là tại sao ba năm rồi mà nó vẫn còn hiệu nghiệm. Dựa trên sự tiên đoán của nhà bào chế thì thuốc này mất hiệu nghiệm khoảng sau 5 tháng hoặc tối đa là 9 tháng sau khi dùng. Bác sĩ của Jenny cũng không hiểu và bà hay hỏi Jenny "Cô có chữa gì khác bên ngoài không?"
Câu trả lời của Jenny là sở dĩ được như vậy là nhờ những phương pháp lành mạnh khác để duy trì cơ thể mà lúc nãy Jenny đã nói đến.
Dĩ nhiên những chi tiết Jenny vừa kể liên quan đến bệnh ung thư của Jenny và cơ thể của Jenny. Nhưng bài học chung là: Bác sĩ không biết rõ cơ thể của mình bằng mình, cũng không hẳn biết hết về mọi nghiên cứu mới nhất, hay có biết cũng không có quyền quyết định mọi cách chữa tốt nhất cho mình vì giới hạn của bảo hiểm y tế hay thủ tục của nhà thương, vì thế bệnh nhân cần chủ động nghiên cứu thêm và đi xin ý kiến thứ hai. Không hoàn toàn nghe theo bác sĩ là vậy.
Bản quyền hình ảnhJENNY ĐỖ
Image caption
Jenny Đỗ khi được tuyên dương lần thứ 2 là Trailblazer Award Recipient - California Woman of The Year 2016 (Khu 15). Bên trái là Thượng Nghị Sĩ California Jim Beall
Bản quyền hình ảnhALAMY
Image caption
Tranh 'Journey of the Half Questions' của Jenny Đỗ, 2008. Sưu tập của Doan Trang và Cuong Tran
BBC: Vâng, trong trường hợp của luật sư, dù bác sĩ đã bó tay, nhưng bà đã đẩy lui được ung thư, và đạt được tình trạng NED - No Evidence of Disease. Vậy thì bước ngoặt trong chương trình chữa bệnh của bà theo những phương pháplành mạnh cụ thể này là gì?
LS Jenny Đỗ: Về mặt tìm những phương pháp lành mạnh khác để duy trì cơ thể, nhờ Jenny đọc nhiều kinh nghiệm của những người khác đi trước, và khi Jenny hiểu được là thức ăn thức uống đóng cùng với phương cách sống đóng một vai trò rất lớn đến sự tồn tại của mình, Jenny đã quyết tâm thay đổi. Cụ thể và khái quát là: dùng thức ăn và thức uống để trị bịnh, và áp dụng khoa học nhịn ăn. Qua các thông tin tìm được trên mạng, Jenny đã đi đến quyết định không ăn đường và thịt đỏ. Rồi sau hai năm, đi đến quyết định ăn chay trường. Không cần biết ung thư loại nào, một điều mà khoa học đã khẳng định là ung thư muốn phát triển phải cần nhiên liệu. Mỗi loại ung thư lại cần nhiên liệu khác nhau, nhưng nhiên liệu căn bản mà hầu như mọi tế bào ung thư đều cần để lan tràn nảy nở chính là đường và chất đạm. Hết chuyện đường lại đến chuyện chất đạm hoặc đúng hơn là amino acids từ chất đạm (amino acids from proteins). Khi biết được là đa số tế bào ung thư rất cần amino acids (khoảng 20%-40%) để sinh sôi nảy nở, Jenny đã cẩn thận hơn khi ăn thịt và hải sản trong hai năm đầu. Bỏ thịt đỏ và giảm đi số lượng dùng các loại thịt khác. Và gần đây Jenny đã bỏ luôn thịt và hải sản. Giờ đây đi vào chợ, hầu như Jenny mê mải ở bên hàng rau, trái cây và các loại đậu. Khu vực giữa và bên hàng thịt cá đã không còn là nơi Jenny quan tâm tới.
Bản quyền hình ảnhJENNY ĐỖ
Image caption
Jenny Đỗ trong lần về Việt Nam làm việc với Amerasians năm 1990
BBC: Có vẻ trong những phương pháplành mạnh bà vừa nêu, nhịn ăn là phương pháp khó nhất. Cảm giác của cơ thể bà khi nhịn ăn như thế nào? Có mâu thuẫn gì giữa việc nhịn ăn với việc cần phải bồi dưỡng cơ thể để có sức khỏe chống lại bệnh ung thư không?
Bản quyền hình ảnhJENNY ĐỖ
Image caption
Jenny Đỗ cùng các em trong hội Friends of Hue tại Việt Nam
LS Jenny Đỗ: Jenny khẳng định là không mâu thuẫn. Khi nhịn ăn 16 tiếng từ 8 g tối hôm nay đến 12 g trưa hôm sau, Jenny thấy người mình nhẹ hơn. Ăn chỉ vừa để sống nhưng không qúa nhiều để phục vụ ung thư. Jenny vẫn cân mỗi ngày và vẫn giữ cho cơ thể không bị xuống cân. Khi mình nhịn ăn cơ thể có dịp làm sạch những ứ đọng. Thêm vào đó các tế bào ung thư sẽ run rẩy vì thiếu đường và dinh dưỡng. Chúng mở toang cửa ra để mình đưa chất độc vào trong chúng, đồng thời bồi bổ cho các tế bào tốt. Đây là phương cách ăn uống đúng mực mà Jenny đã viết trong bài "Đường Khuynh Diệp Trong Ta!" mà các bệnh nhân ung thư nên tham khảo.
"Nếu nhịn như vậy thì làm sao có đủ sức để mà đối phó với ung thư?" Mọi người thường hỏi Jenny. Thưa rằng, dựa trên những nghiên cứu của các chuyên gia, cơ thể ta không cần phải ăn ba bữa. Ăn kiểu này là do con người tạo ra thói quen. Càng ăn thường xuyên ta lại càng bắt cơ thể phải làm việc nhiều và không tập trung chữa trị những hư hại trong người. Thêm vào đó, tâm ta cũng không tịnh. Khi ngưng bộ tiêu hoá trong 16 tiếng, tâm hồn ta thảnh thản hơn và cơ thể nhẹ đi. Đó là lý do tại sao các đấng tu hành ngày xưa phải tuyệt thực để đạt được giác ngộ. Chúa, Phật và các cha, các tăng đều trải qua con đường này.
Sau khi nhịn ăn 16 tiếng đồng hồ, ta sẽ rất trân trọng bữa ăn và cân nhắc về thức ăn. Từ ngày đi con đường 16-8, Jenny đã rất quý các bữa ăn và không muốn trộn thức ăn "xấu" vào để làm bẩn cơ thể của mình. Ta như tờ giấy trắng, không nên để lem các vết nhơ mà phải nắn nót từng chữ lên trang giấy cho thật đẹp.
BBC: việc giúp đỡ bệnh nhân ung thư của bà cụ thể giúp như thế nào? Theo bà thì bệnh nhân ung thư và gia đình họ cần giúp đỡ về phương diện gì nhất?
LS Jenny Đỗ: Vì mỗi bệnh nhân có tình trạng khác nhau nên Jenny phải nói chuyện rất lâu với từng người mới hiểu được họ cần hướng dẫn gì. Không có một công thức đơn thuần nào mà Jenny có thể chia sẻ dễ dàng. Song song với việc trả lời phỏng vấn này, Jenny có viết một bài viết nói về những kinh nghiệm chữa bệnh mà bản thân mình đã trải qua.
Qua quá trình giúp bệnh nhân trong 2 năm vừa rồi, Jenny thấy điều quan trọng nhất cho các người bệnh là về tinh thần, và phương hướng đối phó chủ động. Đó là điều Jenny có thể giúp mọi người một cách hữu hiệu nhất. Jenny tiếp tục dùng xã hội mạng social media để nâng đỡ tinh thần mọi người và cố giúp mọi người tranh đấu kéo dài thêm cuộc sống để chờ đợi sự phổ thông của immunotherapy, tức phương pháp miễn dịch trị liệu, là một cách điều trị cho phép cải thiện ổn định hệ thống miễn dịch của chính bệnh nhân để chữa các bệnh như bệnh như ung thư.
Bệnh nhân cần thêm chi tiết có thể liên lạc với Jenny qua trang Facebook "Đường Khuynh Diệp" hoặc qua email: jennydolaw@gmail.com.
Câu chuyện của Luật sư Jenny Đỗ nằm trong loạt bài Global Vietnamese - Người Việt Nam Toàn Cầu của BBC Tiếng Việt.
Độc giả muốn chia xẻ những nét đặc thù, hay những nhân vật nổi trội của cộng đồng mình, xin liên lạc với BBC, email: vietnamese@bbc.co.uk hay với tác giả, email: tina.thanhha.vu@bbc.co.uk

Đói -- Jenny Đỗ


Chữ viết tôi bắt đầu bị lệch hàng. Tôi không sao tường thuật một cách rõ ràng về cuộc hành quân của quân đội Đức Quốc Xã qua vùng băng tuyết của nước Nga trong Thế Chiến Thứ II. Khi phải viết về cơn đói khát và cái lạnh nghiệt ngã mà quân đội họ phải đương đầu, mắt tôi dường như mờ đi. Tim tôi đập chậm lại. Người tôi đổ xuống băng ghế trong lớp. Loáng thoáng có tiếng bạn bè nhốn nháo quanh tôi.
Tiếng thằn lằn trên trần nhà phòng bệnh làm tôi tỉnh lại. Về sau tôi biết người ta đã đưa tôi vào bệnh viện Nguyễn Văn Học gần trường. Bác sĩ chẩn bệnh bảo tim tôi “đập loạn nhịp” và cho tôi được nhập viên. Tám ngày nằm trong nhà thương là tám ngày hạnh phúc nhất của tuổi thơ tôi. Tôi được ăn!
Sau ‘giải phóng’, gia đình tôi bỗng như biến thành vô hình, không được công nhận là dân cư Sài gòn. Lý do vì chúng tôi đi vượt biên thất bại sau ngày 30 tháng 4, rồi sau đó trốn lên Túc Trưng làm ruộng để khỏi bị “đấu tố” và “chôn sống”. Mẹ tôi bảo vậy. Tôi đã được nghe rất nhiều về chuyện mẹ tôi phải chứng kiến cảnh đấu tố và người trong họ của mẹ tôi bị chôn sống sau cuộc Cách Mạng Tháng 8 Năm 1945. “Mình không thể ở lại đây được, nhất là con bé Thanh”. Mẹ tôi nói đi nói lại câu này với những người trong gia đình. Bà khẳng định là bằng mọi giá nhà tôi phải rời thành phố Sài gòn. Vì tôi! Lúc ấy, tôi không thể hiểu được nguyên do lạ thường ấy. Nhưng tôi cũng chẳng hỏi, chỉ làm theo những gì người lớn sai bảo trong những ngày căng thẳng đó.
Vì không có mặt tại Sài gòn trong những ngày đầu của việc kiểm tra các “hộ dân”, gia đình tôi không được cấp “hộ khẩu” – giấy chứng nhận dân cư của Thành phố. Đây là nguồn gốc của bao cuộc thăng trầm. Chín năm đầy đọa. Chín năm dạy cho tôi những bài học làm người. Chín năm thấm nhận được những đói khát của cơ thể, những đói khát của trí tuệ đến tột đỉnh. Chín năm thèm thuồng màu sắc đến điên dại. 
Không có hộ khẩu là không có quyền mua gạo và thực phẩm theo giá nhà nước. Cuộc sống bên lề này đã biến chúng tôi thành những nạn nhân của thị trường chợ đen. Thay vì một ký gạo chỉ có 2 đồng “Cụ Hồ”, mẹ tôi phải trả 20 đồng để mua một ký gạo mốc. Cái tủ gỗ lim của mẹ tôi, bàn ghế trong nhà, tranh trên tường, các chén kiểu Thượng hải của Ngoại tôi để lại, bộ đồ “com lê” của một người đàn ông mà tôi chưa từng gặp và những vật dụng có giá trị khác dần dần đưa nhau đi đánh đổi lấy gạo, khoai mì, khoai lang, hoặc rau muống. Gạo nấu cơm phải trộn lẫn với bắp, rồi dần dần trộn thêm khoai lang. Và sau cùng khoai lang cũng bị thay thế bằng sữa bột Liên-Xô. Lý do duy nhất mà tôi được uống sữa này là vì không gia đình nào muốn uống sữa bột. Ai cũng sợ sữa, mà sữa bột tanh hăng của Liên Xô lại càng sợ hơn. Mỉa mai thay, những giọt sữa bất đắc dĩ này lại là nhiên liệu giúp tôi cầm cự một thời gian trước khi bị ngã gục trong lớp giờ thi Sử.
Sáng dậy mẹ tôi nấu một nồi nước nóng rồi khuấy bột sữa vào để làm sáu bát sữa. Tôi được uống một bát đầu ngày trước khi đi học và một bát vào buổi tối. Thế thôi. Ngồi trong lớp, bạn bè tôi thường cười ầm lên khi nghe tiếng cồn cào ọt ẹt của bao tử tôi.
Cái đáng sợ của ngày ấy là phải nhìn người khác ăn uống quanh mình. Cơm, xôi, bánh mì của những người khác là những đe dọa lớn nhất đối với tôi. Nó làm tôi nhỏ lại, hèn hạ, thấp kém. Mệt và thèm là hai tình trạng đáng buồn của cơ thể. Nó hay xuất hiện vào buổi trưa hoặc tối. Giờ tan học dưới ánh nắng cháy da là lúc tôi phải trở về với thực tế phũ phàng. Tiếng chén đũa khua vào nhau, tiếng người gọi người về ăn, mùi thức ăn phảng phất đâu đó trong không khí nhắc cho tôi biết tôi vẫn còn sống và còn đầy cảm giác. Nhưng tôi phải trở thành câm và điếc – phải tranh đấu để cơ thể không còn cảm nhận được những cám dỗ của thế giới xung quanh. Tôi không thể đầu hàng trước sức mạnh của cái Đói. Dần rồi tôi tìm đủ mọi phương tiện để tránh những giờ phút đầy cám dỗ và nhục nhã đó.
Tan học về là tôi đến thẳng cổng chùa, nơi mẹ tôi để một tủ bán thuốc lá rất nhỏ ngay trước cổng. Tôi giành ngồi đó để bán thuốc cho mẹ nhưng thực chất là để đọc truyện tìm lối thoát. Chỉ có đọc truyện mới giúp tôi có đủ sức mạnh đối phó với cơn đói. Càng đói tôi đọc càng nhiều, và bỏ quên các bài toán lý hóa, các lý thuyết chính trị vô nghĩa của nhà trường. Khi hòa mình vào hàng chữ ngả nghiêng nhảy múa trên giấy là khi tôi quên đi cái nôn nao dày vò của cơ thể.
Ngày ấy, “sách truyện” mà tôi tìm được là những tờ giấy tái dụng sần sùi, ố bẩn được khâu vào với nhau thành những cuốn vở dày. Người ta chép truyện bằng tay vào những cuốn vở đó và chuyền tay nhau để đọc.  Mặc dù mọi người nâng niu những “cuốn sách” đó, các trang giấy dần dà cũng bị nát ra từng mảnh. Vào cái thời “cải cách giáo dục” này, các sách nước ngoài được dịch ra tiếng Việt và sách của “chế độ cũ” đều bị cấm và bị đốt. Những bản chép tay trên giấy ố là những bè phao vô giá đã cứu vớt tôi, đã cho tôi nhìn thấy những bầu trời của chị em trong gia đình họ Bronte, chia sẻ nỗi bất hạnh của nàng Tess d’Urbervilles. “Cuốn sách” mà tôi đọc đi đọc lại là tác phẩm “Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà” của Victor Hugo. Tôi cảm thấy gần gũi với cô nàng gypsy trong truyện và mong được lang thang như cô, tuy rằng không hiểu được tại sao đời lại hắt hủi cô. Có những đêm tôi để nước mắt tuôn rơi xuống gối để thấy mình là Cosette trong “Les Miserables”. Trong những đêm sống ở chùa, nghe nước mắt rơi chầm chậm trên má, tôi mong đợi mãi bàn tay của Jean Valjean đến cứu tôi, nhưng Jean Valjean của tôi không hề xuất hiện.
Cơn ngất xỉu trong lớp lần ấy đã vực tôi dậy và làm tôi sống lại. Giờ cơm đầu tiên trong Khoa Nhi của bệnh viện, tôi kêu thốt lên thành tiếng khi thấy mâm đồ ăn đặt xuống giường ngay trước mặt tôi. Nào là cơm trắng, nào là đậu hũ kho vàng quyến rũ và rau luộc xanh mướt đầy ắp trước mắt tôi. “Cháu có được ăn hết chỗ này không ạ?” Tôi ngớ ngẩn hỏi người y tá mặc áo trắng khi cô nhanh chân đẩy xe cơm ra khỏi phòng tôi. Xấu hổ lắm nhưng tôi phải thú thật là tôi đã ăn như chưa bao giờ được ăn. Sặc lên được. Vừa nghẹn vừa hả hê.
Sau lần đầu tiên được nhận lại mùi cơm trắng, mùi đồ ăn, tôi mong đợi từng giờ từng phút để được đến bữa ăn kế tiếp. Điều lạ lùng hơn hết là cứ trước giờ ăn thì tôi lại được một bác sĩ đứng tuổi tên Phú có bộ râu cằm lởm chởm đến khám bệnh cho tôi. Phòng chúng tôi có sáu trẻ, sáu giường. Tôi lúc ấy 14 tuổi, là đứa lớn nhất trong đám trẻ. Đứa bé nhất chỉ mới lên bốn tuổi, những đứa còn lại hầu hết khoảng sáu bảy tuổi. Bác sĩ đến phòng này chỉ để khám bệnh cho tôi. Lần nào bác sĩ cũng cởi áo tôi ra để đặt ống nghe lên tim tôi, rồi sau đó là ông nắn ngực tôi từ trái sang phải rồi từ phải sang trái. Ông cứ làm vậy liên tục. Có lần ông làm tôi đau lắm vì ông nắn hơi mạnh. Tuy nhiên, tôi không hề than phiền vì tôi biết rằng sau giờ khám bệnh tôi sẽ được ăn cơm.
Khi mẹ tôi đến thăm và bảo tôi chuẩn bị xuất viện, tôi cảm thấy thất vọng và buồn một cách vô lý. Tôi mỉm cười khi nhìn thấy giấy xuất viện phê là tôi bị “thiếu dinh dưỡng” chứ không phải bị đau tim.
Vì chuyện tôi bị ngất xỉu, cô Bắc, một người bạn quen giàu có của mẹ tôi nhắn tin bảo tôi lên thăm nhà cô ở đường Trương Minh Giảng. Mẹ tôi bảo tôi nghỉ học một ngày để làm chuyện đó. Ngày trước “giải phóng”, gia đình tôi còn khá giả, mẹ tôi thường mặc áo dài chấm chân cùng cô Bắc đi “dạo phố” mua hàng. Từ ngày chúng tôi trở thành người vô sản, mẹ tôi không còn đi lại với cô Bắc và những người quen giàu có khác. Sau nhiều năm trôi qua, tôi được trở lại nhà cô. Cô khen tôi lớn nhanh và bắt đầu có “nét phụ nữ”. Tôi kể cho cô nghe những cơn đói dữ dội của tôi. Cô nghe nhiều hơn là nói, rồi sau đó đưa cho tôi một cái bị khá nặng. “Gạo Nàng Hương mới đây con, ngon lắm. Cho cô biếu mẹ con.” Tôi cám ơn cô rối rít, thầm nhủ “gạo Nàng Hương chắc chắn phải thơm lắm” mặc dù chẳng biết gạo Nàng Hương là gạo gì! Tôi thường mơ thấy những cơn mưa rào của Sài gòn, những hạt mưa đang rơi ào ạt bỗng chợt biến thành gạo. Phải chi tôi được đứng dưới những cơn mưa gạo trắng xóa như trong giấc mơ.
Tôi hí hửng ôm bao gạo lên bến xe buýt đi về chùa. Chiều gần tối, trời như sắp chuyển mưa, gió hất giấy rác và bụi bay khắp nơi cay cả mắt, xe đông kịt. Xe quá đông khách. Tôi ngần ngại nhưng cũng phải chen chân lên xe vì không muốn phải đợi chuyến sau, sợ trời mưa. Tôi cố lấn lên. Mọi người thúc nhau, đẩy nhau, người sát người, nhễ nhại. Cơ thể tôi được mọi người xô đẩy dần dần vào bên trong. Xe chạy lắc lư làm mọi người nhào qua nhào lại ôm bám lẫn nhau để có tư thế đứng vững. Bao gạo nặng trên tay tôi từ từ sa xuống chân. Xe lại nhào thật mạnh. Tôi suýt té. Sợ mất bao gạo, tôi nhìn xuống chân để kiểm lại. Đột nhiên tôi thấy có hai bàn tay to, bóng nhớt và đen thui thủi đang nắn nót bộ ngực nhỏ của tôi. Tôi bắt đầu cảm giác được sức mạnh của sự nắn bóp này. Nó là một cảm giác rất lạ. Trong thoáng giây đó, nó làm tôi liên tưởng đến các buổi viếng thăm của Bác Sĩ Phú! Cảm giác ghê sợ chợt như một cơn lũ tràn về, mãnh liệt.
Mặt tôi nóng lên, rồi người tôi nóng lên, không thở được. Ngay lúc đó, xe ngừng lại ở một trạm lớn tại chợ Bà Chiểu. Vẫn chưa tới nhà, nhưng như người đang vừa bị bỏng vừa bị tê liệt, tôi vùng người thoát ra khỏi đôi bàn tay đen nhễ nhại kia để theo mọi người bước ra khỏi xe. Tôi nhảy xuống đất, hứng trọn cơn gió lốc đầy bụi lúc đó. Khi đã hoàn hồn, tôi liền quay lại để nhìn xem người có bàn tay đen đủi đó là ai. Tôi nhìn thẳng lên cửa xe và nhận ra được cái đầu hói của một người đàn ông nhô ra giữa đám người đứng chen nhau như cá hộp, và thấy cánh tay đen của người đàn ông đó đang xoa bụng dưới của ông ta. Tôi không sao quên được đôi mắt nhỏ và sâu của ông ta nhìn thẳng vào mặt tôi một cách thật bình thản. Tim tôi vẫn đập mạnh mặc dầu cửa xe đã đóng lại và xe đã chuyển bánh. Bụi cát bay mịt mờ. Tôi lấy tay dụi mắt và sực nhớ là tay mình đã không còn bao gạo nữa!
Á! Tôi chết lặng trong người rồi vội vã thất thanh chạy theo chiếc xe buýt. “Ê! Bác Tài ơi, đứng lại!” Tôi hét lên trong cơn gió. Vừa vẫy tay, vừa gào, vừa chạy. Mọi người xung quanh nhìn tôi chăm chăm. Đầu xe càng lúc càng nhỏ dần. Tôi thở hổn hển đứng lại giữa dòng xe đạp đổ lên từ hai bên. Tôi biết mình đã mất gạo thật rồi và không hiểu mình sẽ phải giải thích thế nào với mẹ. Tôi đã mất cơ hội làm cho mẹ tôi vui, mất cơ hội cho mẹ tôi và em tôi được ăn cơm. Sự mất mát này khủng khiếp quá. Tôi làm sao có thể kể lại câu chuyện xấu xí kia dù chính bản thân cũng không hiểu tại sao nó xấu và tại sao tôi cảm thấy xấu hổ. Tôi không có lời giải thích chuyện gì đã xảy ra. Không. Tôi không thể nói thật cho mẹ tôi biết được. Tôi phải nghĩ ra một lý do nào thật đặc biệt để làm cho mẹ tôi phải tội nghiệp cho tôi và không trách tôi bất cẩn hoặc đãng trí.
Bị bùa! Thế là tôi nghĩ ra giải pháp. Tôi sẽ nói tôi bị người ta bỏ bùa để lấy mất bao gạo. Tôi nhỏ lớn chưa biết “bùa” hình thù ra sao; nhưng hình như mọi người ai ai cũng tin vào sự màu nhiệm của nó. Truyền rằng hễ ai bị bỏ bùa thì người đó bị mê hoặc để phải làm theo sự điều khiển của người giữ bùa. Đó là lần đầu tiên tôi biết nói dối với mẹ. Mẹ tôi chắng những tin tôi mà còn cám ơn Trời đất là người có bùa đã không bắt cóc lấy tôi. Mẹ tôi cho rằng tôi hết sức may mắn nên chỉ mất gạo chứ không mất người! Thấy mẹ tôi mừng mà lòng tôi như bị xé ra trăm mảnh. Hối hận là đã lừa dối bà nhưng tôi không biết làm sao để nói lên sự thật kia. Tuy không hiểu tôi đã làm sai chuyện gì, chỉ biết rằng tôi thấy xấu hổ nhục nhã vô cùng. Tôi giữ kín câu chuyện này cho đến hơn mười năm sau mới kể lại được. Và mẹ tôi đến giờ lâu lâu vẫn nhắc đến chuyện tôi bị “bỏ bùa” mất gạo.
Jenny Đỗ (June 2013)


Sunday, June 24, 2018

Cuộc Phỏng Vấn với Báo Calitoday 2018
"Cách đây vài năm, Ls Jenny Đỗ bị ung thư giai đoạn cuối (4), và bác sĩ cho rằng cô chỉ sống được vài tháng cuối cùng mà thôi. Bây giờ sau 3 năm, cô hồi phục một cách kỳ diệu. Tại sao? Chúng ta cùng chia xẻ những tâm tình và tiết lộ nhé."
https://www.youtube.com/watch?v=frMOSaCmnbs&t=1033s
Cuộc phỏng vấn với Calitoday 2015
https://www.youtube.com/watch?v=4cuQUbwaCgc

Đường Khuynh Diệp - Bóng Lunh Linh 

Trong cơn lạnh cắt da nứt môi của Prague, người đàn bà đầu quấn khăn đen mời tôi mua bánh đậu! Tiếng nài nỉ với giọng quê mùa có sức mạnh vô hình níu chân tôi lại. “Bác ơi! Mua bánh đậu về “nàm” quà!” Tôi nhìn xuống đôi mắt đen cầu khẩn của chị. Nơi chốn phồn hoa đô hội, dưới bóng của các cung điện Prague, khuôn mặt này, lời mời đó, của người đàn bà Bắc kỳ khốn khó ngồi co ro trước cửa chợ khiến tôi thấy nhoi nhói trong lòng.

Trong thoáng giây đó, những dấu chân xưa tôi đã ghi trên con đường Khuynh Diệp chợt hiện về. Dồn dập. Mấy năm qua tôi đã có diễm phúc được độc giả gần xa yêu cầu tiếp tục viết thêm về cuộc hành trình tìm sức sống của mình, tuy nhiên, máu viết vẫn đọng lại không về cho đến hôm nay, mặc dù hành trình vẫn tiếp diễn.

Tôi không có công việc gì ở Prague, chỉ đến để tìm thư giãn sau bốn ngày ngán ngẩm tham dự một cuộc hội thảo vô vị tại vương quốc Monaco. Prague đã đến với tôi từ lúc tôi mới lớn, nhưng chỉ qua những đứa con cưng đa tài của nàng, như Franz Kafka hay Antonín Dvořák. Tôi cũng đã từng hình dung vẻ đẹp của Prague qua những tác phẩm văn chương tôi được đọc, nhưng khi thật sự đặt chân đến phố cổ ở đây, tôi mới thấy sự giới hạn của văn chương cùng trí tưởng tượng của mình.

Người Việt ở trong nước ngày nay gọi Prague là Praha, theo lối phát âm ở Đông Âu. Prague (Praha) nguy nga và cổ kính, hiền hòa nhưng kiêu hãnh. Là thủ đô của Cộng hòa Czech, và trước kia của liên bang Czechoslovakia (mà ngày trước chúng ta gọi chung là Tiệp Khắc), Prague là nơi cuộc Cách Mạng Nhung (Velvet Revolution, theo cách gọi của người Czech) đã bùng lên vào năm 1989 để đánh đổ chế độ cộng sản đã đè lên đất nước này hơn 40 năm (cuộc cách mạng này còn được mệnh danh là Cách Mạng Hiền Hòa - Gentle Revolution, theo cách gọi của người Slovak). Prague ngày nay đứng thứ bảy trong danh sách các thành phố trên thế giới được du khách thăm viếng nhiều nhất. Bước chân vào khu phố cổ, khách du lịch không khỏi ngưỡng mộ các vòm đỉnh cầu kỳ của những lâu đài đã từng in bóng trên nền trời trung cổ, những cổng thành nặng nề như phải lôi theo hàng ngàn năm lịch sử, những nhà thờ uy nghiêm một thời vang bóng, những con đường đá mòn như cổ tích….Tất cả như vang lên tiếng hòa tấu nhạc thơ giao hưởng (symphonic poems) của Dvořák. Các tượng đá nằm trên cổng nhà thờ hoặc cổng thành từ thời Baroque vẫn sừng sững nét hiện hữu và sống động như luôn muốn nhắn nhủ khách qua đường đừng để thời gian xóa đi ngày tháng cũ.

Prague may mắn đã không bị hủy hoại qua hai thế chiến. Chỉ có một tòa nhà bị Mỹ pháo kích lầm trong thế chiến thứ II. Nhưng dù Prague không ghi lại nỗi buồn chiến tranh, nàng vẫn bị dằn vặt bởi đã trở thành công cụ cho chính sách tiêu diệt chủng tộc Do Thái của Đức Quốc Xã.

Đoàn quân xâm lăng của Đức đã để yên không hủy hoại Prague. Nhưng họ đã biến một khu vực nằm ngay trong lòng phố cổ thành một trại tập trung, giam hãm người Do Thái suốt cuộc chiến. Những kẻ bị giam ở đây không được phép bước ra thế giới bên ngoải. Ngày nay người ta gọi di tích của cơn ác mộng lịch sử kia là Jewish Quarter. Tôi đã bàng hoàng xúc động khi đến nghĩa địa ở đấy. Giữa lòng Phố Cổ nguy nga, giữa các thành quách đồ sộ, một nghĩa địa nằm trồi lên khỏi mặt đường khoảng chừng 2 mét. Sau khi tìm hiểu, tôi được biết là khu vực này không đủ đất để chôn người, nên mộ của những người chết phải xây chồng lên nhau. Dần dà nghĩa địa tăng chiều cao và cứ thế mà dày theo năm tháng. Dày như sức chịu đựng của cả một sắc tộc đã một lần là nạn nhân của một chính sách diệt chủng tàn bạo.

Ngày nay Prague đã tạm quên đi nỗi buồn Do Thái và vui như một người đàn bà đương độ hồi xuân. Tôi may mắn được chứng kiến Prague trang điểm để chuẩn bị đón Lễ Phục Sinh. Vào dịp lễ này, trang sức của nàng là những quả trứng gà to nhỏ sặc sỡ đủ màu, tràn ngập khắp các phố phường.

Trời hôm ấy mưa phùn, có lẫn đá nhỏ như kim đâm vào mặt khách đi đường. Nhưng bất chấp, người và người vẫn tràn ngập quảng trường Phố Cổ. Như cá hộp, họ tụ sát lại nhau trước Đồng hồ Thiên văn (Astronomical Clock) khổng lồ ở giữa quảng trường để chờ nghe chuông đổ báo đầu giờ. Cứ đúng mỗi cuối giờ, họ lại được chứng kiến một bộ xương người biểu tượng cho thần chết xuất hiện như để chuẩn bị kết thúc cuộc sống. Ngay sau đó, những vị thần khác cùng xuất hiện để can thiệp và gióng chuông để loan báo sự tiếp diễn của vạn vật. Rồi một hồi kèn hân hoan trỗi lên từ nóc lâu đài như chúc mừng cuộc sống. Và dĩ nhiên là đám đông phải vỗ tay tán thưởng. Tan cuộc, mọi người đổ vào các hàng quán gần đó để thưởng thức hương vị của đặc sản Czech, như thịt heo quay trên những lò than hồng và rượu vang nóng nghi ngút khói thơm mùi trái cây. Người ta ăn uống, cười nói với nhiều thứ tiếng khác nhau. Đúng là biểu hiện của một thế giới hòa bình và hạnh phúc. Tôi nghe lâng lâng một niềm vui, nhưng vẫn thấy thiếu sót vì không nghe thấy bên mình có âm thanh quen thuộc của ngôn ngữ Việt.

Rồi tình cờ tôi gặp được hai người Việt đứng mua hàng gần khách sạn. Tôi mừng quá liền hỏi thăm họ về cộng đồng Việt tại đây. Theo tôi được biết, không có thông tin chính xác nào về con số người Việt hiện đang sống tại Prague. Lý do dễ hiểu: rất nhiều người Việt hiện cư ngụ bất hợp pháp tại đây. Tùy theo bản thống kê bạn đọc, con số này có thể thay đổi từ 10.000 đến 100.000. Nhưng không hiểu họ ở đâu? Sao không thấy hương vị nước mắm ở trung tâm thành phố? Tôi hỏi và hai người đồng hương chỉ cho tôi đến khu sinh hoạt quen thuộc nhất của người Việt, một khu vực có tên gọi rất thú vị là Chợ Sapa! Và thế là tôi lên kế hoạch đi Sapa tìm phở.

Trời hôm sau vẫn tiếp tục mưa phùn, gió buốt. Nhưng đường đi đến Chợ Sapa lại làm tôi nóng ruột. Đi mãi đi hoài vẫn không đến nơi. Thì ra người Việt ở xa lắm, xa khu vực sang trọng sầm uất của Prague. Càng ra xa, nhà cửa càng bé lại, đường xá càng xấu đi. Dọc đường đi, những hàng cây ướt át đứng rũ lá, bất động.

“Ông có thường chở khách ra đây không?” Tôi buột miệng hỏi tài xế taxi người Czech. “Không, ít lắm. Mấy ai lại ra tận nơi đây”. Càng đi lại càng thấy đường dài. Đã mấy lần tôi hỏi để được nghe cùng một câu trả lời. “Ở bên kia kìa”. Nhưng đã mấy cái bên kia mà Chợ Sapa vẫn chưa thấy. Tôi hỏi thêm: “Thế ông có hay gặp người Việt không?”

“Vâng, tôi có gặp họ trong những trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi ra tòa, hình sự cũng như dân sự. Tài xế chúng tôi hay bị cảnh sát gài bẫy vì không tính tiền theo hộp số. Vì vậy, tôi hay bị ra hầu tòa và hay thấy họ ở đấy”.

“Vậy theo ông họ có hội nhập vào đời sống ở đây không? Họ có nói tiếng Czech không?” Anh tài xế cười to. “Tôi đã từng nghe họ cãi nhau bằng tiếng Czech. Nhưng khi ra tòa hay gặp cảnh sát thì họ lắc đầu lia lịa, bảo rằng không hiểu gì hết”.

Xe taxi chạy chậm lại.

“Bên kia là xưởng giết gà ngày xưa. Chợ của người Việt đó”.

“Tại sao lại là xưởng giết gà? Tôi không hiểu".

“Thì ngày xưa nó là xưởng giết gà để cung cấp cho thành phố. Sau này bị bỏ hoang và người Việt đến đó lập chợ“. Tôi nhìn theo tay chỉ của người tài xế thì thấy một vùng trời tái xám đè lên một khu phố kết hợp bởi những gian hàng lụp xụp thấp lè tè. Anh ta thả tôi trước một cái cổng đơn sơ có biển đề chữ Sapa. Tôi bước xuống nhìn xung quanh, chỉ thấy cảnh tượng tiêu điều không một bóng người. Tôi bỗng chợt thấy lo cho đường về.

“Vậy rồi làm cách nào để tôi quay lại thành phố?”

“Ở đây không có dịch vụ taxi đâu. Đây là số điện thoại của tôi, cô gọi đi rồi tôi sẽ đến đón cô”. Nói xong anh lui xe đi, để lại tôi đứng trước một khu hoang vắng như chợ ma. Không một bóng người, chỉ có gió buốt lạnh thấu xương. Tôi chụp hình cổng chợ rồi mạnh dạn tiến vào.

Bước vào khu chợ lồng, tôi giáp mặt mấy cô gái trẻ. Tôi vui mừng hỏi mua hàng bằng tiếng Việt, với dáng vẻ tự hào. Nhưng những cô gái kia lại trả lời cộc lốc, thêm vào đó giọng của các cô có phần khó nghe nên tôi mất hứng. Tôi ghé sang hàng khác, rồi hàng khác nữa. Chẳng gặp được nụ cười hay lời chào hỏi nào quen thuộc. Người trong chợ dửng dưng nhìn tôi, và tôi nhìn lại họ. Trong im lặng. Luồng gió thổi từ ngoài vào bắt tôi phải lấy khăn che mặt. Tại sao không có người mua mà chỉ toàn người bán…và tôi? Tôi nhủ thầm. Sau một vài vòng vô vị, tôi hỏi tìm tiệm ăn ngon gần chợ. Một người chỉ tôi đến gian hàng bún chả ở phía ngoài chợ lồng. Tôi bước vội theo mùi thịt nướng. Trong thoáng chốc tôi đã đến một hẻm nhỏ và trông thấy một người đàn ông đứng bên tường nướng thịt. Mùi thịt trên than hồng làm tôi muốn chết vì thèm. Tôi vội dùng iphone của mình để chụp lấy cảnh thịt xì xèo trên than đỏ.

Tôi khen anh nướng giỏi. Anh chàng bèn quay lại cười hề hề nhe hàm răng vàng vì thuốc lá. Bỗng đâu đó có người hét lên bằng một ngôn ngữ mà tôi không hiểu. Tôi quay ra phía cửa tiệm và thấy một người đàn bà Việt ốm choắt đang to tiếng một cách giận dữ.

“Chị la lối gì vậy, tôi không hiểu”. Tôi lẩm bẩm.

“Không được chụp hình nhà tôi. Ở đây không cho chụp hình!” Tiếng nói đanh đá phá vỡ bầu trời buồn thảm của chợ Sapa. Tôi ngẩn người thất vọng, không muốn đáp lời mà chỉ quay chân bước đi, mặc dầu không hiểu được nguyên do của sự phẫn nộ kia. Thế là toi mất bữa bún chả nướng của tôi. Trong giây phút lê gót nặng nề trên các vũng nước, lòng bối rối đến khó hiểu, tôi nghe thấy tiếng của chị bán bánh đậu. Lời rao hàng của chị làm tôi bình tĩnh lại.

Tuy mặt người đàn bà nhuốm đầy dấu vết trầm luân, chị vẫn tươi cười niềm nở. Tôi mừng như thấy mẹ về chợ. Tôi thuật lại câu chuyện vừa xảy ra tại tiệm bún chả và hỏi chị tại sao người ta lại phản ứng mạnh mẽ thế. Chị trả lời rất nghiêm túc: “Bác mua bánh cho em, em rất mừng, nhưng em cũng không muốn Bác chụp hình em đâu. Đời sống ở đây phức tạp khó khăn lắm Bác ạ. Có chuyện gì chúng em sẽ bị bắt và mất hết”. Tôi không hiểu rõ lời giải thích của chị và cố tình gợi thêm chuyện để lấy thêm chi tiết. Nhưng chị chỉ nói chung chung và vẫn không cho tôi thêm một thông tin chính xác nào. Chị ngồi đó vẫn niềm nở trong cái lạnh nghiệt ngã, trước một ngôi nhà bày biện như hàng chợ. Phía trong nhà, ở giữa là các loại rau được trưng bày trong thùng đặt dưới đất, bên cạnh là các thùng đựng ốc ngón tay và tôm đông lạnh. Hai bên tường là các món đồ sứ lòe loẹt rẻ tiền của Trung Quốc. Tôi hỏi người đàn ông đứng gần đó đang nhìn tôi soi mói.

“Thưa anh, ở đây ngoài chợ này, còn chợ Việt nào khác không ạ?”

“Không”. Lại một câu trả lời lạnh lẽo. “Cô từ đâu đến?”

“Dạ, từ Mỹ ạ”.

“Mỹ thì sướng quá rồi”. Người đàn ông nói với giọng chua chát rồi nhìn đi chỗ khác. Một lần nữa tôi bước đi trong bối rối.

Tôi lại tiếp tục tìm nơi ăn trưa. Tôi tìm được một nhà hàng khang trang mang tên Hoàng Thành. Ngoài bãi đậu xe có một bảng hiệu ghi hai chữ “Little Hanoi”. Tôi chợt hiểu. Cư dân ở đây đều đến từ miền Bắc. Nhưng theo cách phát âm của họ, tôi đoán họ không phải là người Hà Nội.

Nhà hàng Hoàng Thành được trang trí một cách nhã nhặn và thanh lịch, trái ngược với phong cách của thực khách đang có mặt tại đó. Họ nói chuyện to tiếng, giọng của người miền Bắc. Mùi hương vị đồ ăn buộc tôi phải chú ý đến thực đơn. Sau bao ngày ăn các món ăn Pháp và xúc xích của Prague, được ăn các món ăn Việt là cả môt niềm hạnh phúc. No bụng đói mắt, tôi gọi phở, nem cua bể và lươn xào xả ớt ăn bánh đa. Tuyệt vời! Phở đây không phải phở miền Nam nhưng nhờ bánh phở tươi, trong cơn lạnh bát phở trở thành bát súp đầy an ủi. Lươn cũng tươi, nem cua bể cũng tạm được, chỉ có bát nước mắm là hơi nửa mùa, tội nghiệp. Tôi phải xin nước mắm sống và chanh ớt để tự pha lấy.

Tôi vừa ăn vừa cố tình kéo dài thời gian để trò chuyện với cô hầu bàn. Cô xác định là tất cả những người sống ở đây đều đến từ Hải Phòng, Hải Dương và các vùng thôn quê ngoài Bắc. Thời gian đầu họ đến để du học nhưng dạo sau này đa số thuộc thành phần xuất khẩu lao động.

Vì đông khách, tôi không tiện hỏi vào chi tiết. Tôi rời nhà hàng mà trong đầu vẫn còn bao nhiêu câu hỏi không được giải đáp. Khi tôi chuẩn bị gọi điện thoại cho anh tài taxi hồi sáng thì bỗng thấy một tờ giấy quảng cáo dịch vụ taxi dán trên tường. Không suy nghĩ, tôi gọi ngay số điện thoại ghi trên tờ quảng cáo. Sau ba mươi phút đợi chờ, xe đến. Tài xế là một thanh niên Việt, đầu trọc, da trắng, đôi mắt sáng cười rạng rỡ. “Thưa Chị về đâu ạ?” Thế là tôi và anh chàng taxi người Việt tên Cương bắt đầu một cuộc hành trình thật ấn tượng.

Những vòng quanh co của đường phố phía trước và ánh đèn vàng bên lề từ từ hiện ra song song với những hình ảnh đời sống khắc khổ của cộng đồng người Việt tại chợ Sapa. Cương kể dồn dập không dừng tiếng, như đã từ lâu anh không có dịp nói về đề tài này.

Họ không có tiếng nói ở đây, Chị ạ. Có những người qua đây hơn chục năm mà đến giờ vẫn chưa đặt chân ra khỏi chợ Sapa. Họ luôn sống trong sợ hãi. Buôn bán ngày càng khó khăn, không thành công, họ tranh giành nghi kỵ lẫn nhau. Rất nhiều người đã bán nhà, cầm đất, hy sinh tất cả để qua đây làm ăn, để rồi bị trắng tay. Không đủ mặt mũi để trở lại quê nhà, họ nán lại đây chờ thời. Giấy tạm trú rồi bị hết hạn và từ đấy họ trở thành những người cư trú bất hợp pháp, sống vất vưởng bên lề xã hội và ngày ngày cầu mong sao không bị cảnh sát bắt.

Giọng Cương nghe đều đều như lời tự nhủ. Tôi biết là Cương đã đi lạc, vì nhận thấy xe đã vòng mấy lần trên cùng một con đường. Nhưng tôi không màng vì mải nghe chuyện và vì chúng tôi đã thỏa thuận giá cả từ trước.

“Họ sống tập trung ở đây là vì bị người Czech kỳ thị phải không em?”

Kỳ thị thì ở đâu chẳng có Chị ạ -- người Việt mình kỳ thị lẫn nhau còn nặng hơn thế nữa. Lý do chính là tinh thần hội nhập của họ quá kém. Họ hoàn toàn không có ý thức và dự định hòa đồng. Ai đến đây cũng chỉ có mục đích làm giàu, mơ tưởng rằng chỉ sau một thời gian ngắn họ sẽ trở lại quê nhà. Nhưng trên thực tế mấy ai có thể dễ dàng ra đi khi cơ nghiệp chưa có. Rất nhiều người sống ở đây bao năm rồi mà vẫn không nói được một chữ Czech. Để mỗi khi đụng chuyện, họ phải chịu tốn kém chạy tiền mướn người thông dịch. Từ chuyện đưa con đi nhà thương đến chuyện ghi danh cho con đi học. Thế hệ này coi như là vứt đi rồi Chị ạ. Chỉ còn mong vào thế hệ con cháu.


“Vậy em có nói tiếng Czech không?”

“Vâng, em nói rành vì em đã sống ở đây trên hai mươi năm”.

“Sao em lại không giống như những người ở chợ Sapa, chỉ sống quanh khu chợ?”

Vì em xuất thân cực nghèo. Phải chịu nhục và tủi thân nhiều lắm rồi. Nên lúc qua được đây, em quyết tâm chọn nơi này làm quê hương và không quay về Việt Nam nữa. Em bây giờ đặt hết niềm tin vào các con em. Cuộc sống của em tốt và ổn thỏa. Còn cộng đồng nói chung thì rất phức tạp, Chị ạ. Có những nỗi đau rất khó tả. Thế giới của chợ Sapa có nhiều vấn đề, chẳng hạn như buôn lậu và bán thuốc phiện. Hiện tại chính quyền Czech rất khó chịu với cộng đồng người Việt và đổ thừa cho khu chợ Sapa là một trong những mầm mống của tệ nạn xã hội tại Praha.

Tôi buột miệng: “Chỉ vì một vài con sâu mà làm cho cả một cộng đồng bị liên lụy mang tiếng”.

Khó nói lắm, Chị ạ. Khi con người không còn lối thoát, họ phải làm tất cả để sống. Cách đây ba năm có một anh chàng Việt Nam sang đây, mang theo bao nhiêu tiển của từ bố mẹ để đi lập nghiệp. Nhưng không may bị thất bại, tiền bạc sạch trắng, hắn không đủ can đảm quay về và đã thắt cổ tự tử chết.

Ở đây, bao nhiêu trường hợp thất bại tương tự đã xảy ra, nhưng thay vì chọn cái chết, nhiều người chọn cách làm tiền phi pháp. Mình không thể phê phán họ khi mình không nằm trong hoàn cảnh của họ, Chị ạ.


Xe vẫn chạy, bầu trời dần dần khép lại, mưa rơi lất phất. Chúng tôi bỗng rơi vào bầu im lặng nặng nề. Sau không biết bao nhiêu hơi thở, tôi lên tiếng: “Người Việt mình thường làm nhà hàng giỏi, tại sao mình không vào ngay trong trung tâm thành phố để làm ăn? Hiện nay chưa phải là mùa hè mà du khách đã đông như vậy, chắc hẳn phải có nhiều cơ hội buôn bán lắm chứ, phải không Em?”

Cương cười nhẹ, tiếng cười thật nhẫn nại.

Không đơn giản như vậy đâu, Chị ạ. Thứ nhất, tiền mặt bằng quá đắt. Thứ hai, mặc dù luật pháp không cấm, nhưng các gian hàng của người thiểu số rất bị giới hạn. Người Czech muốn bảo tồn di tích lịch sử của Praha và không muốn các sắc tộc khác chen chân vào nội thành. Nếu Chị để ý thì Chị sẽ không thấy có hai gian hàng nào của người thiểu số đứng cạnh nhau. Đây là luật bất thành văn, và ai cũng hiểu điều này. Trong trung tâm, lâu lâu Chị mới thấy có một tiệm ăn Trung quốc và một vài tiệm đấm bóp của người Thái. Chỉ có thế thôi. Sẽ không bao giờ Chị thấy có ‘phố Tàu’ hay ‘phố Nhật’ như ở các nước khác.


Tôi cố gắng nhớ lại và thấy nhận xét của Cương thật đúng.

“Chị vẫn không hiểu là sau gần ba mươi năm mà không có người Việt nào thành công rồi dọn vào trung tâm để sống?"

Làm sao mà mua nổi, Chị ạ. Cũng có một số người mua nhà ở trung tâm đấy. Nhưng mỉa mai thay, họ không phải là những người định cư ở đây, mà lại là người ở Việt Nam đem tiền qua đầu tư. Mỗi tòa nhà giá hàng triệu đô la Mỹ.

Tôi bắt gặp mình thở dài.

“Hiện giờ em đang sống ở đâu?"

“Ở gần chợ Sapa, Chị ạ”.

Xe đã đến Phố Cổ mà tôi lại ước xe còn đi lạc. Trời rét ướt nhưng người đi Phố Cổ vẫn tấp nập. Cơn lạnh đẩy họ lại gần nhau hơn và đưa tiếng hát của họ bay cao hơn. Các quả trứng rực rỡ treo trên cây vẫn tung tăng trước gió. Trong khung cảnh tưng bừng như ngày hội, tôi bỗng nhiên cảm thấy lạc lõng vô cùng. Và chợt thấy lòng mình nặng trĩu. Sau một vài phút ngập ngừng, tôi giã từ Cương. Tôi chỉ mới gặp Cương hơn bốn mươi phút đồng hồ trước đây, tôi và Cương không có một giọng nói cùng miền và không cùng nơi xuất xứ, thế nhưng khi Cương kể chuyện, tôi cảm thấy như chúng tôi là chị em ruột thịt đã từ lâu không gặp.

Cương đi rồi, tôi nhập vào đám đông, muốn dựa vào họ để đón nhận và chia sẻ hạnh phúc của Prague, nhưng sao vẫn cảm thấy rất ư cô độc. Tại sao những người ở chợ Sapa lại không có được những giây phút Phục Sinh như ở nơi này?

Trong cơn lạnh cắt da nứt môi của Prague, tôi chợt nhớ đến nghĩa địa chồng chất của người Do Thái và hình dung ra cảnh họ sống chen chúc trong trại tập trung nơi Phố Cổ. Tôi liên tưởng đến hình ảnh chị bán bánh đậu đầu quấn khăn đen, chàng thanh niên bất hạnh đã thắt cổ tự tử, và thoáng thấy đâu đây bầu trời xám nhỏ bé của người Việt tại chợ Sapa.

Tôi lại tiếp tục đi trong bối rối…

Jenny Do (2012)
ĐƯỜNG KHUYNH DIỆP - full version

Mặn.

Hàm Tân biển không người. Đêm rằm tháng Giêng trăng sáng đến màu nhiệm. Nơi đây, đất của vùng tù đày ngày xưa, cũng là điểm cuối trong cuộc hành trình tìm thuốc của tôi. Đêm lộng lẫy hi hữu khi đất trời có trăng cao hoan hỷ, biển óng ánh ngút ngàn, và hạnh phúc nhỏ của tôi. Rung động trước sự hài hòa của nước trời, tôi quỳ trong biển, dang tay đón nhận sóng, và van xin trăng cho thêm những ngày sống để có ích cho người. Còn bao nhiêu việc cần phải làm, còn bao nhiêu người đang trầm luân.

Khởi bước hành trình, tôi từ Hoa Kỳ về Châu Á với hai mục đích, trước là để dưỡng bệnh và sau là để thăm 40 đứa trẻ mồ côi do hội Friends of Huế Foundation đang nuôi dưỡng tại Huế. Tất cả cần phải làm xong trước khi tôi trở về lao đầu vào công việc luật pháp, sau bao tháng nghỉ ngơi để điều trị bệnh ung thư vú. Các thân chủ tôi đã khuyên nhủ: “Luật sư cần phải về Việt Nam chữa trị,…hốt thuốc tam thất, hốt lá đu đủ, uống cỏ…gặp thầy lang 90 tuổi, v.v.” Những lời thật chân tình. Mặc dầu tôi không mấy tin tưởng về những phương pháp này, thay đổi không khí, giải tỏa tâm trí, tìm thêm sức sống là chuyện tôi nên làm. 

Một trong những hương vị mà tôi nhớ và thèm tìm lại được là mùi hương lá khuynh diệp ở Việt Nam. Ngày còn bé sống trong chùa, tôi thường ngâm lá khuynh diệp để làm thuốc hay rượu cho Thầy trụ trì. Vì nghịch ngợm, tôi hay vò lá cho xanh cả tay và hít hà hơi nồng thơm của khuynh diệp. Mỗi lần như vậy, tôi hình dung là đã tận hưởng sức sống với mùi ngai ngái của lá, và cảm thấy người mình như tăng thêm năng lực. Trong những tháng yếu ớt vì hóa trị (chemotherapy), tôi đã ước mong được trầm mình trong hương vò của lá. Bạn có thể thắc mắc là tại sao tôi lại phải quay về Việt Nam để tìm khuynh diệp khi những cây này mọc đầy rẫy tại California, như những hàng cây bạn thấy chạy dọc theo các đường lộ ở Santa Rosa hay tỏa bóng mát trong sân trường đại học Stanford? Tôi đã từng hái lá khuynh diệp ở những nơi này nhưng hương vị không đậm đà bằng lá khuynh diệp trong trí nhớ của tôi, và cảm giác được gia tăng năng lực thì hoàn toàn không có. Vì khác khí hậu chăng? Mùi vị húng quế của California cũng thế, không được thơm như húng quế ở Việt Nam.

Trang bị đầy đủ lý do, tôi lên đường. Trước khi về đất Mẹ, tôi tự nhủ phải nên ghé thăm đất thánh thần Kampuchea. Biết đâu khuynh diệp nơi này còn tốt hơn ở quê nhà Âu Lạc. Phnom Penh tiếp nhận tôi lặng lẽ như thiếu lòng chào đón. Có một cái gì đó quen thuộc nhưng xa lạ. Một thành phố hỗn tạp, đầy rẫy những xe lam đủ màu gọi là “tuk tuk”. Đất khô bụi đỏ nằm phơi dưới ánh nắng cháy da, người dân đen lam lũ. Không một bóng cây khuynh diệp. Rồi tôi phạm một lỗi lầm lớn. Tôi ghé thăm bảo tàng viện Diệt Chủng Toul Sleng và nơi chôn người tập thể Choeung Ek. Hai nơi địa ngục của trần gian.

Toul Sleng trước đây là trường trung học. Những căn lầu ba tầng nối hàng nhau im lặng dưới trưa. Các lớp học cửa gỗ ngây ngô sơn đã phai màu, với những hành lang gạch đầy bóng mát, nằm dưới sự che chở dịu dàng của các rặng dừa lao xao trong gió lộng. Nhìn thoáng qua, Toul Sleng là một khung cảnh nên thơ, nơi khách viếng thăm có cảm tưởng như nghe được tiếng cười của trẻ em vang vang đâu đó. Thế nhưng ở cái khung cảnh thanh bình ấy, những thảm cảnh khủng khiếp về tội ác của loài người đã diễn ra. Bước vào các lớp học, tương phản với các ô gạch dưới sàn nhà là hàng ngàn, hàng vạn những tấm hình chụp. Đây là hình ảnh những nạn nhân và những cuộc tra tấn hành hình mà họ phải gánh chịu. Những đôi mắt của các em bé đáng yêu, của các chị phụ nữ sợ hãi ngơ ngác, của các thanh niên bất lực và tuyệt vọng, của các cụ già cam chịu, như dõi theo từng bước chân tôi. Các câu hỏi hình như còn đọng lại trong mắt họ. Họ đã nghĩ gì trước khi bị tra tấn và tử hình? Kìa những hình ảnh của các phụ nữ ôm con trước khi họ và con họ bị phân thây. Nước mắt tôi ướt áo. Đưa tay chặn nước mũi, hồn tôi nghe đau nhức cho thân phận những người xấu số chết không toàn thây dưới lưỡi hái của tử thần mang danh là chính quyền Pol Pot. Những người này đã không được “ân huệ” chết bằng đạn bắn. Bị bắn chết là một sự may mắn. Vì tiết kiệm đạn, chính sách của Pol Pot là hành hạ nạn nhân cho đến chết. Bọn sát nhân đã chế ra những cái xiềng và ghế tra tấn khủng khiếp. Như để khoe thành tích của mình, chúng đã chụp hình nạn nhân trước khi, trong khi, và sau khi tra tấn họ. Đi qua các lớp học, tôi không còn hình dung được tiếng cười của trẻ thơ, mà chỉ cảm thấy chung quanh vang lên tiếng kêu khóc thê thảm của các em. Gần 3 triệu người đã mất mạng một cách dã man trên đất này, trong đó có một số không nhỏ là người Việt. Mấy ai trong chúng ta có thể tưởng tượng được sự ác độc của loài người lại sâu thẳm đến thế. Khi thăm trại chôn người Choeung Ek, tôi phải đối diện với sự hãi hùng chưa từng gặp. Ngoài các mộ tập thể loang lở trên khu đất rộng, ngoài tòa lầu sọ người cao đến rùng mình, ngoài những đống quần áo phảng phất dấu bùn và máu khô, những đôi dép há mõm, những đống xương ống chân tay, những cái ly đựng răng hàm của nạn nhân, tôi còn thấy những cây có bát nhang và giỏ trái cây treo lơ lửng trên cành. Tôi cố nén xúc động. Tự hỏi tại sao người dân lại thờ những cây này? Mấy giây sau thì tôi vỡ lẽ. Trên thân cây có những vết dao sâu hoắm ngang dọc chi chít. Thì ra trẻ em đã bị đè vào những cây này trước khi thân hình bị chặt ra. Ở các hố chôn người đã được tìm thấy ở chung quanh, có biết bao xác đã không được nguyên vẹn hình hài. Có một hố đa số xác phụ nữ và trẻ em không có đầu và quần áo. Hơn 30 năm đã trôi qua, vậy mà người viếng thăm Choeung Ek vẫn còn có thể nhìn thấy xương vụn và quần áo của nạn nhân nằm rải rác đâu đó bên bờ các ngôi mộ tập thể. Lúc lính của Pol Pot tràn qua biên giới Tây Nam đánh giết người Việt, tôi còn sống tại SàiGòn. Theo sự hiểu biết ít ỏi của tôi lúc đó thì Trung Quốc không muốn cho Việt Nam được độc lập, Thế nên họ không hài lòng lắm khi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Tôi nghe phong phanh là họ muốn dạy cho Việt Nam một bài học. Trung Quốc đã tiếp tay với chính quyền Pol Pot để tấn công Việt Nam ở biên giới Tây Nam và đồng thời dẫn quân tràn vào vùng Lào Cai nơi biên giới Hoa Việt. Sau khi lính Cộng Sản Việt Nam tấn công và chiếm được Phnom Penh, Trung Quốc lại tiếp trợ cho tàn binh Khmer Đỏ của Pol Pot chạy trốn trong rừng để chống Việt Nam. Biết bao thanh niên Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến Miên Việt này. Trong số những người hy sinh, một người bạn học chung lớp của tôi đã đạp phải mìn chết nơi đất người vào năm 1984.

Sự mất mát của người Việt tại Kampuchea thật nặng nề, vậy mà ít ai nhắc tới. Người Việt sống tại Kampuchea rất đông, và đã bị chính quyền Pol Pot giết gần hết vào lúc đó. Người Chàm (Chiêm Thành) chạy loạn từ Việt Nam sang Kampuchea từ thế kỷ 13 cũng khá đông. Khoảng 2/3 dân số Chàm tại Kampuchea cũng bị Pol Pot tiêu diệt. Điều đáng buồn là không phải chỉ riêng chính quyền Pol Pot, mà người dân Kampuchea nói chung cũng rất căm hận người Việt Nam. Tôi biết chuyện này một cách mơ hồ cho đến khi có mặt tại xứ người. Lịch sử như sống dậy trước mắt.

Qua những cuộc nói chuyện với dân bản xứ, tôi được biết là từ bao nhiêu năm qua người Miên đã luôn cảm thấy bị người Việt đô hộ, bằng áp lực quân sự cũng như bằng sức mạnh kinh tế. Là người Việt, phản ứng tự nhiên là tôi muốn phủ nhận chuyện này. “Người Việt không tốt với chúng tôi.” Người lái xe tuk tuk nói trong một buổi ăn trưa. Khi bị hỏi cặn kẽ, anh chỉ lắc đầu, và lại lắc đầu. Mặc dầu có mấy đài tưởng niệm sự hy sinh của các chiến sĩ Việt tại Phnom Penh và Siem Reap, người Miên không chút ái mộ người Việt. Tôi đến chợ trò chuyện với các chị thúng rổ người Việt. Hỏi xem gia đình họ ở đây có bị ngược đãi không? Hoàn toàn không. Họ khẳng định với tôi và vồn vã cho rằng buôn bán ở Phnom Penh rất thuận lợi. Người bản xứ cũng hòa nhã. Hai bên không hiểu nhau chăng? “Người Việt đẹp lắm!” Cô gái Miên có đôi mắt to đen cười nói với tôi. Tôi được biết là người Việt rất được chuộng trên thị trường sex của đất Kampuchea. Các trẻ em và phụ nữ Việt ở đây “bán” rất được giá, khách mua dâm chịu trả tiền cao cho những người có làn da trắng hơn da người Miên bản xứ. Nếu hôm qua người Miên và người Việt là nạn nhân của phong trào diệt chủng của Pol Pot, thì hôm nay họ là nạn nhân của một tội ác mới. Đó là tội buôn người. Những cuộc mua bán người Việt Miên để làm nô lệ tình dục đang được tiếp diễn hàng ngày tại Kampuchea.

Khi phái đoàn chúng tôi đến Siem Reap, một em bé gái độ chừng 9 tuổi đã tìm đến một người đàn ông Mỹ trong nhóm du lịch của chúng tôi và hỏi “You need yum yum?” Ông trợn mắt nhìn em bé: “What did you say to me?” Em bỏ chạy. Dựa trên báo cáo TIP (Trafficking In Persons Report) đưa ra vào năm 2005, 2006 và 2007, rất nhiều phụ nữ và trẻ em Việt đã trở thành nạn nhân của các cuộc mua bán người ở Kampuchea. Tôi thử đến một vài phòng trà tại Phnom Penh để tìm hiểu tình hình. Vào thế giới đêm đầy muỗi đói tôi phải đối diện với ánh mắt dò xét của các ông khách dị hợm người da trắng đổ dồn vào mình. Đa số các “nhân viên” phòng trà đều là người Việt. Họ đã từng nghe lời dụ dỗ vượt biên giới để có được những công việc ngon lành. Những lời dụ dỗ ấy đã chấm dứt ở đây. Những ước mơ đơn giản vỡ vụn khi va chạm với thực tế phũ phàng. Trên đất người, trong ánh đèn lờ mờ sau khói thuốc, tôi nghe một cảm giác thật lạ khi quanh tôi vang lên những giọng nói miền Nam đặc dẻo hòa lẫn tiếng hát của Celine Dion. Thấp thoáng những khuôn mặt xinh tươi chỉ độ khoảng tuổi con tôi. Tôi ghé qua nhiều phòng trà như thế nhưng không thấy một người khách Á Đông nào. Hỏi ra thì được biết có những nơi kín đáo khác dành riêng cho họ. Người lái taxi rất ngần ngại không tiết lộ cho tôi, nhưng theo tôi được biết thì thế giới đen này còn bỉ ổi hơn. Nơi đó người ta sẽ thấy rất nhiều các em bé. Trẻ em thì không tự mình đi đến chốn này. Bị ép, bị dụ hoặc bị bán. Gia đình các em bán rẻ hoặc thả liều cho các em đi qua đất Angkor bán cà phê hay buôn gạo. Kết quả là các em trở thành nô lệ tình dục mà không có cách nào tìm ra lối thoát. UNICEF ước lượng 1/3 phụ nữ “bán hương” ở Kampuchea tuổi dưới 18 mà trong số đó phần đông là gái Việt. Nhu cầu “hàng” nhỏ tuổi, chưa dậy thì, ngày càng gia tăng, vì khách hàng muốn mua gái còn trinh, gái không mang bệnh tật. Theo điều tra của một số người chuyên môn, các thương gia Á Đông, nhất là các thương gia Trung Hoa, tin rằng ăn ngủ với con gái còn trinh sẽ đem may mắn cho việc làm ăn của họ đồng thời giúp cho họ tăng thêm sức khỏe. Do đó gíá của các em rất cao, cao đủ để trinh tiết của các em bị gia đình “hy sinh”. Nhưng gia đình các em không biết rằng họ đã giết chết các em tự thuở đó. Chết cả tinh thần lẫn thể xác. Một em thuật lại với nhân viên xã hội là khi em bị bán đi, ngực em vẫn chưa thành hình. Sau bao nhiêu năm bị hành hạ, em đã không còn muốn sống và đã thường dùng dao để tự cắt mình. Chuyện buôn người hiện nay đang diễn ra khắp nơi trên thế giới, từ Việt Nam đến Dubai, từ Đông Âu đến Ai Cập, song theo thống kê thì đây là bi kịch dài của vùng Đông Nam Á. Bi kịch này tôi xin hẹn bạn đọc ở một bài tường trình khác. Mùi khuynh diệp đã không đến với tôi tại Phnom Penh.

 Khi tàu tốc hành của chúng tôi đến cảng Siem Reap, tôi đã không thể kiềm chế nổi nỗi xúc động khi chứng kiến cái nghèo thê thảm của người dân vùng này. Dưới cái nóng ngộp thở của bến cảng là cảnh tượng hỗn loạn của những người tranh nhau kiếm ăn. Người dân bu quanh khách du lịch để bán hàng hoặc mời gọi đi xe tuk tuk. Bụi bay mịt mờ trên những con đường đầy ổ gà to lớn. Tất cả nằm trong một bầu không khí nồng nặc mùi tanh của cá. Hai bên vệ đường đất đỏ là những ngôi lều được dựng lên bằng những mảng ny lông. Dưới những mảng ny lông đó, vợ chồng con cái chen nhau sống. Các em bé trần truồng như nhộng chạy lông nhông trên đường. Tôi đã đi qua rất nhiều nước và đã đến những vùng nghèo khó của Mễ Tây Cơ và Việt Nam, nhưng chưa nơi nào thảm thương như nơi này. Vào để hiểu thêm Siem Reap, người ta sẽ thấy cái nghèo và tệ nạn xã hội đi đôi với nhau. Trẻ em đi ăn xin đầy đường đến khó chịu. Những em bé sơ sinh được bồng như một dụng cụ để ăn xin. Tôi để ý thấy những em này lúc nào cũng ngủ say mê man. Tôi đoán là họ, những thành phần của cơ cấu “cái bang”, đã cho các em bé này uống thuốc để ngủ, để chuyện đi ăn xin được dễ dàng hơn. Trước các cảnh tượng này, tôi phải làm gì? Ở Kampuchea có rất nhiều cơ quan hoạt động phi chính phủ (NGO), nhưng qua nhận xét của các chủ khách sạn thì các cơ quan hoạt động hữu hiệu rất ít. Tôi không sao tìm ra một cơ quan nào do người Việt quản lý, tuy người Việt định cư ở nơi này rất tấp nập. Đa số các quán hàng lớn, sạp bán ngoài chợ đều do người Việt làm chủ. Họ sống sung túc và thành công, trái với cái tôi nhìn thấy ở người bản xứ. Nợ máu, nợ đất, tôi không biết ai nợ ai giữa hai phía Việt và Miên, điều đó đối với tôi không quan trọng. Tôi cảm thấy mình phải làm cái gì đó trước khi rời khỏi miền đất khổ sở này. Tôi may mắn được sự hỗ trợ của hội Friends of Huế Foundation, và đã qua đó để nối kết với một ngôi chùa Phật Giáo cùng các sư tăng đi đến vùng người dân chài sống để giúp họ gạo và nước mắm. Những người lam lũ và khốn khổ này đã quỳ xuống lạy phái đoàn một cách hết sức chân tình khi tiếp nhận sự cứu trợ. Tôi đã ứa nước mắt đứng tránh ra không dám nhận lễ của họ. Tôi muốn mua sắm rất nhiều thứ để phân phát cho các trẻ em mồ côi. Một đất nước chỉ có 6 triệu dân, vậy mà số trẻ em không cha mẹ lên tới 670,000 (theo thông tin của UNICEF). Khi đi chợ tôi mới khám phá ra là ở Kampuchea, mọi việc mua bán đều tính bằng đô la Mỹ, và vật giá đắt đỏ hơn ở VN rất nhiều. Đôi khi còn đắt hơn cả ở Mỹ. Phẩm chất thì kém mà giá tiền lại cao, chẳng hạn như về mặt ăn uống. Ngoài việc giúp tiền cho các trại mồ côi, tôi còn muốn mua các trái banh nhựa cho các em để các em có thêm phương cách sinh hoạt chung. Không ngờ là những trái banh nhựa lại quá đắt, một trái banh nhỏ xấu xí giá 4USD còn trái lớn giá 10USD, trong khi gạo thì 10USD/kg. Sau khi tìm hiểu vấn đề, tôi được biết là Kampuchea không sản xuất mà chỉ nhập cảng hàng hóa nhựa từ Việt Nam. Những quả cầu lông cũng do Việt Nam sản xuất. Mua sỉ giá 1USD một cái trong khi ở VN thì chỉ có 2000VND. Tôi chợt nhớ là ở Việt Nam, mọi mặt hàng đa số do Trung Quốc sản xuất! Người ta ngồi chồng lên nhau một cách thật thứ tự: Trung Quốc ngồi lên Việt Nam, và Việt Nam thì lấn người Miên. Tôi rời khỏi Kampuchea mà lòng thật không ổn. Người dân của hai nước láng giềng này có rất nhiều nét tương tự với nhau. Từ chén chè đậu trắng nước dừa cho đến mùi hơi của đất trong mưa rào. Nhưng họ lại không muốn hiểu nhau và không cảm thông nhau. Tôi hoàn toàn không tìm được hương vị khuynh diệp nơi xứ sở của kỳ quan Angkor Wat, nhưng cảm thấy người tôi thêm được một sức sống mới vô hình. Tôi sẽ phải làm một việc gì đó.

II

Từ cơn nóng hơn 30 độ C của Siem Reap, tôi bay vào vùng đất rét 7 độ C của Hà Nội. 26 Tết thủ đô những hàng hoa muôn màu sắc. Đỏ hồng vàng rực trời trong những cơn gió buốt xương. Hoa đào và cây cam quát (quất) ngập đường, đèn cờ rợp lối, điểm thêm sức sống cho bầu trời xám tái của miền Bắc. Xe cộ quá nhiều kẹt cứng trên đường trong những cơn mưa lạnh căm, đám đông chen chúc tranh nhau mua hàng ngoài phố, nhưng sự hỗn độn của cái xã hội thiếu trật tự kia không làm mất đi không khí của ngày đón Xuân. Hàng hóa từ Trung Quốc tràn về ngự trị đất Hà Nội, kể cả những vật trang trí cho ngày Tết Mậu Tí.

Khách viếng thăm không thể phủ nhận được cái nhộn nhịp tưng bừng của một thành phố háo hức đón xuân, mặc dù thời tiết còn đang khắc nghiệt. Tôi nhập bọn với các anh bạn họa sĩ của tôi để lên rừng hái hoa. Họ là thế. Lúc nào cũng phải khác người, không thích chạy theo đám đông. Tuy hoa đào đầy rẫy khắp chợ hoa, các anh lại muốn đi tìm hoa mận. Thời buổi này mọi người chạy xe Honda với những model mới nhất như SH300 gì gì đó, thì các anh họa sĩ của tôi lại chạy những chiếc Vespa cũ kỹ của thời 70. Mấy năm qua tôi vẫn thường về thăm và trao đổi nghệ thuật với họ. Tôi đã gia nhập những chuyến đi xa với những mục đích thật vu vơ chẳng hạn như lên miền cao Hà Giang tìm rượu ngô của Cô Thu Bột. Hoặc những cuộc hành trình sưu tầm gốm cổ nhà Mạc, hay đi kiếm xác chiếc xe Landrover mãi tận đảo Ngọc Vừng hoang dã cuối Vịnh Hạ Long.

Thú vị nhất là chuyến đi về làng gốm cổ truyền Phù Lãng, nơi mà cả ngàn năm nay vẫn duy trì cách nấu gốm bằng củi, mặc dầu xung quanh làng không một bóng cây ngọn gió. Tôi nhớ mãi lời nói của một anh họa sĩ khi chúng tôi đứng ngắm nghía một số mẫu gốm tân thời trang trí theo tính cách lập thể (cubism): “đây là cái tát vào nghệ thuật!” Họ có những nhận xét rất khắt khe và cực đoan trong lãnh vực nghệ thuật, chẳng hạn như đến nay họ vẫn không chịu nghe dĩa nhạc CD mà chỉ nghe dĩa nhựa (vinyl records) hoặc băng nhựa (audio tapes). Một anh cho rằng những dĩa này có những lỗi do thời gian và bụi bặm tạo ra, nhưng do đó đã mang theo lịch sử và thời gian của nhạc. Có lẽ vì những sự cực đoan đó, tôi hết sức yêu mến họ. Chúng tôi đánh xe lên Hòa Bình, đất đỏ, núi xanh rì cao sững như trong tranh cổ Trung Quốc. Xe chúng tôi đi sâu vào các miền đất của người Dao, cứ thế mà đi mãi đi mãi, hết bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu lần dừng lại ngẩn ngơ ngắm sương mù rơi xuống các nhà tranh bên đường. Hoa mận vẫn biệt tăm. Thì ra năm nay hoa mận nở sớm và đã rụng hết khi cái rét tràn về. Chúng tôi tay trắng quay về Hà Nội, đến Lê Thạch Quán gần bờ Hồ Gươm, nơi tụ tập thường xuyên của giới văn nghệ, thì trời đã tối. Riêng tôi cảm thấy một cái gì đó thật hả hê và thỏa mãn, mặc dù không hái được một nhánh hoa mận nào, và mặc dù cây khuynh diệp vẫn vắng bóng.

Có lẽ là do những mẩu chuyện vụn trên đường, nhất là những chuyện của trước ngày “đổi mới”. Anh “Tâm Mải Chơi” chắc hẳn phải hắt hơi vì chúng tôi nói rất nhiều về anh hôm ấy. Anh là một họa sĩ mê chơi hơn mê tranh. Có lần anh dặn vợ ở nhà để anh đi ăn sáng với bạn, rút cuộc là 3 ngày sau anh mới quay về nhà. Còn khi vào Sài Gòn triển lãm, anh thuê 2 chiếc xích lô, một chiếc chở anh và chiếc kia chở tranh. Đi giữa đường gặp người quen vẫy vào quán uống cà phê, anh liền nhảy xuống xe và quên mất xe tranh. Ngày khai mạc cuộc triển lãm của anh, anh đến tay không và cười trừ với mọi người. Tệ hơn nữa là có lần anh Tâm bắt gặp một anh bạn của mình hớn hở dẫn cô tình nhân mới quen vào một căn nhà nhỏ trên lầu cao để tỏ tình. Chủ nhà này lúc ấy vắng nhà đi Tam Đảo. Anh Tâm Mải Chơi bèn lén lút khóa cửa nhốt họ lại. Chỉ định đùa nghịch đôi tình nhân kia một lúc cho vui nhưng rồi anh bỏ đi nhậu với bạn bè và quên béng mất mọi chuyện. Ba ngày sau anh mới nhớ ra và chạy đến mở cửa cho cặp tình nhân nọ thì hai người này đã bơ phờ rũ rượi. Chuyện kể lại là từ đó hai người tình nhân kia không bao giờ nhìn mặt nhau nữa. Rồi lại đến chuyện lạc núi. Mấy anh họa sĩ thì thường đi lên miền cao để tìm “cảm hứng sáng tác”. Đêm về sương mù dày đặc các anh không sao tìm ra được đường xuống núi. Cuối cùng các anh ghé vào một căn nhà bên đường để xin trọ qua đêm. Đó là căn nhà tranh của 2 bố con người thiểu số. Ông bố bằng lòng cho 3 anh họa sĩ ở trọ và quay dặn dò cô con gái bằng tiếng bản xứ, cô gái này người độ khoảng trong ngoài 18 tuổi có làn da trắng mịn. Cô nghe bố dặn rồi lui vào nhà trong. Các anh họa sĩ ngồi bên ngoài uống trà trên nền đất. Họ đợi mãi vẫn không thấy cô gái trở lại và cũng không được chỉ dẫn chỗ ngủ ở nơi nào. Cơn lạnh miền núi tràn ngập gian nhà nhỏ, cằm của các anh bắt đầu run lên thì cô gái kia lại đột ngột xuất hiện. Ông bố lúc đó mới quay lại nói với các anh bạn tôi rằng: “con tôi đã nằm sưởi ấm chăn giường cho các anh rồi đó, xin mời các anh vào nghỉ.” Đêm đó các anh bạn tôi ngủ rất ngon! Và còn bao nhiêu câu chuyện thú vị khác nữa đã làm tôi lưu luyến họ. Chuyện họ kể không có gì thâm thúy lắm nhưng khi người kể có duyên thì chuyện gì cũng hấp dẫn. Tôi luôn luôn tìm ra những nguồn sinh lực mới khi gặp lại những người bạn này, nhưng dù mến họ cách mấy tôi cũng không muốn nương lại Hà Nội ăn tết năm nay vì cái rét quá tàn khốc. Ở khách sạn, nước không đủ nóng để tắm và máy sưởi không đủ ấm nên tôi không sao chạy trốn được cái lạnh. Vì không khí mang nhiều hơi nước nên cơn lạnh dường như lúc nào cũng bám vào da và ngấm vào tận xương tủy. Các người dân miền núi phải bỏ nhà dắt trâu bò xuống núi để tránh tuyết, dẫu rằng họ phải ngủ ngoài đường chợ. Nếu trâu bò chết là họ mất hết gia sản. Có những người phải đem hết chăn mền của họ đắp cho súc vật để rồi bị lâm bệnh vì cơn lạnh. Có người chở con đi trên xe gắn máy ngồi đằng trước, khi xuống xe mới biết con đã chết cứng tự lúc nào. Tôi đầu hàng cái lạnh nên phải chạy vào Dốc Lết gần Nha Trang tìm hơi nóng. May cho tôi vùng cát trắng biển xanh này quá thơ mộng nên tôi có chỗ dừng chân để thảo vội bài tường thuật này gửi về bạn đọc. Dốc Lết cũng thật hoang dã, nhưng sau vài bữa lang thang, cuối cùng tôi cũng tìm được bóng mát của cây khuynh diệp đợi mong. Tôi vò mãi lá khuynh diệp để tay thêm xanh nhưng không hiểu sao bàn tay tôi vẫn trắng và mùi hương chỉ thoang thoảng. Thế nghĩa là sao? Tay tôi đã khác xưa và mùi khuynh diệp đã thay đổi?

Tôi lần mò đến một ngôi chợ hải sản ven biển. Vừa ngồi xuống chiếc ghế bố thuê 5000 đồng, vài người bán hàng đã lại vây quanh tôi mời mua mực và tôm tích ăn tại chỗ. Tôi hiếu kỳ nên bằng lòng mua nửa kí tôm tích và nửa kí mực. Con tôm này chắc có họ hàng với con rết nên có rất nhiều chân. Chị bán hàng là một phụ nữ nhìn già dặn hơn tôi nhưng khi hỏi ra thì chị còn nhỏ tuổi hơn tôi nhiều. Tuy da chị bị nám nắng biển muối, chị không dấu được cái vẻ đẹp duyên dáng rất Việt Nam. Nghe lời chị, tôi ngồi ăn rất “dã chiến”, ăn trong gió cát không có khăn lau tay hay bát muối chanh mà tất cả chỉ nằm vẹn trong hai bao ny lông. Không sao. Tôi xin nửa chai rượu đế để phòng hờ không bị đau bụng và sẵn sàng chiến đấu với mực và tôm. Chị bán hàng nhất định không để tôi bóc tôm lấy. Tôi hỏi tại sao thì chị bảo rằng nếu bóc không quen thì thịt tôm sẽ nát vì tôm này mang nhiều trứng. Thế là chị ngồi dưới cát bóc từng con tôm cho tôi ăn. Và nhất định không ăn chung với tôi rồi cũng không chịu ngồi trên ghế sợ tôi tốn tiền. Trong gió cát mờ mắt, tôi thấy tôm thật đậm đà. Tôi bắt chuyện vu vơ và hỏi về chồng con của chị. Nghe giọng chị hạnh phúc tôi phán một câu chung chung: “cuộc sống của các chị đây coi ra thì vất vả về thể xác một chút nhưng tinh thần thật thoải mái, không căng thẳng như chúng tôi bên đó.” Chị đỡ lời tôi ngay: “Căng thẳng lắm chị! Không đơn giản như chị tưởng. Chị có khi nào lo sợ chồng chị đi làm mà không bao giờ về nữa không?” Tôi lắc đầu. “Chồng em đi đánh cá, mỗi đêm là em mỗi phập phồng. Khi bão lớn mà chồng em chưa về thì em cảm thấy mình già đi mấy tuổi. Đã mấy lần thuyền bị lật mà chồng em may sao vẫn chưa mất mạng.” Tôi nhìn ra những chiếc thuyền thúng tròn nhỏ đang lao chao trên biển trong nắng chói chang, rồi quay qua đỡ con tôm từ tay chị và ăn một cách rất thận trọng. Đây là do công sức của nhiều người tôi mới có được bữa ăn đó. Tuy mùi khuynh diệp nơi đây không nồng đủ, tôi rời Dốc Lết cảm thấy lòng mãn nguyện.

Đã đến ngày tôi phải bay ngược ra Huế để thăm các con tôi, 40 đứa trẻ của Hội Friends of Huế Foundation (www.friendsofhue.org). Huế thân thương vẫn đang còn say sưa trong hương vị Tết, nhưng không may cơn lạnh miền Bắc đã xâm lấn đất Thần kinh. Tôi đến thăm Trung tâm trong khí trời lạnh giá. Tuy nhiên, đêm hôm đó chúng tôi cảm thấy thật ấm vì hơn 50 người vừa trẻ con vừa người lớn (tôi và các bảo mẫu) ngồi xung quanh căn phòng học nhỏ hàn huyên tâm sự. Ánh mắt các em sáng rỡ trong niềm vui, nụ cười nở ròn tan trong sự hân hoan. Có ai biết được quá khứ của mỗi em khó khăn sóng gió như thế nào? Nơi đây, các em đã có đại gia đình sống trong tình thương và sự bảo bọc của nhiều người, được như thế này một phần lớn là nhờ công đức của các nhà hảo tâm bên Mỹ. Đêm tàn tôi đi quan sát nơi các em ngủ mới giật mình khi thấy các em co rúm trong một chiếc chăn mỏng. Tôi giận run lên và chất vấn các bảo mẫu là tại sao lại để đến tình trạng như thế. Một chị bảo mẫu rươm rướm nước mắt trả lời: “thưa cô, em cũng định thưa với cô để mua thêm chăn cho các em nhưng bận ri chăn mắc quá cô nờ. Và các thức ăn gạo nước còn mắc hơn. Hội đã mấy lần tăng chi phí cho mỗi em nhưng chúng em đòi hoài thì sợ Hội hiểu lầm. Món chi rứa cũng lên quá cao, cô nì.” Tôi cũng thấy chuyện này trong lúc ở ngoài Hà Nội nhưng không nghĩ nó ảnh hưởng Huế nhiều như vậy. Theo báo chí thì vật giá leo thang đến 14% nhưng lương bổng cho công nhân vẫn vậy. (Ngày tôi gửi bài này đến tòa soạn thì vật giá đã lên đến 17%.) Tôi vẫn không chấp nhận để các em nằm trong cơn lạnh này, nhất là các phòng đều không có máy sưởi. Tôi yêu cầu các chị là bằng mọi giá ngày mai các em phải có thêm chăn. Tôi hỏi: “nhưng đắt là đắt bao nhiêu, thưa chị?” “Phải chăn Trung Quốc thì mới ấm, mà một cái thì khoảng 170 ngàn chị Jenny à.” “Tại sao chúng ta từ trước đến giờ không chuẩn bị chăn ấm này cho các cháu để giờ phải ra cảnh này?” “Thưa chị, vì xưa nay có bao giờ lạnh như chừ đâu. Lần cuối là khoảng 40 năm trước.”

Đêm hôm ấy tôi mới nếm mùi. Khi về khách sạn, tôi bật máy sưởi lên 30 độ C và ngồi trùm chăn để chờ người được ấm lại. Ngồi mãi, càng ngồi càng lạnh. Tôi gọi tiếp tân cho người lên xem tại sao máy sưởi không ấm. "Thưa chị, máy của khách sạn chúng em chỉ có một chiều thôi chị ạ.” Tôi mới hiểu ra là máy này chỉ là máy lạnh mà không có máy sưởi. Đã lạnh tôi còn bật thêm máy lạnh! Đêm ấy tôi mặc quần jeans, 2 đôi vớ và 5 cái áo để đi ngủ. Ngày hôm sau, người bảo mẫu hớt hải vào phòng làm việc của tôi và báo cho tôi biết là giá chăn đã tăng lên 230,000 đồng một cái. Tôi đồng ý cho chị mua với giá này. Đến chiều chị lại lấp ló trước cửa phòng họp của chúng tôi. Tôi mời chị vào và chị rụt rè nói là không tìm đủ số lượng chăn ấm. Chị cho biết thông tin ở ngoài chợ là chăn bắt đầu không còn để bán. Các cửa tiệm đã thông báo cho Hà Nội để chở thêm chăn vào. Ngay hôm đó, xe chuyển hàng đang đi giữa đường vào Huế thì bị điều trở lại Hà Nội vì nhu cầu ngoài Bắc cao hơn. Khách mua hàng từ Trung Quốc phải qua Việt Nam để mua lại chăn chính họ nhập qua, bây giờ mua lại giá một gấp hai. Cuối cùng chúng tôi chỉ mua được 20 cái chăn và các em phải ngủ chung giường để đủ ấm. Sáng hôm sau các em gặp tôi cám ơn rối rít. “Chăn ấm quá cô nì.”

Đương đầu với cái lạnh và bao nhiêu chuyện phức tạp của công việc Hội FHF, tôi cũng không nhớ đến chuyện đi tìm cây khuynh diệp. Lo xong mọi chuyện cho Trung tâm, tôi lại cùng một số tình nguyện viên đi thăm các vùng lân cận nơi bị bão lụt của năm 2007 tàn phá. Biết bao nhiêu nơi cần sự giúp đỡ của hội FHF, hội không thể nào giúp cho xuể. Một nơi đã gây lại ấn tượng cho tôi là xã Quan Hòa. Nơi này là một trong các vùng thấp nhất của Tỉnh Thừa Thiên Huế. Đường vào xã chỉ như con đê hẹp rộng độ 2 mét ngang. Xung quanh là ruộng lúa nước xanh thắm. Nhưng khi lụt đến thì các xã ở khu vực này chìm trong biển nước mênh mông. Bao nhiêu xã hợp lại cũng không có được một ngôi nhà hai tầng để chạy khi nước lên. Trong thời gian bị lụt của năm 2007 vừa qua thì các xã này bị cách biệt hẳn với các xã lớn bên ngoài. Cả tuần lễ sau mới có thuyền vào để cứu người già và trẻ em. Người dân nơi đây van xin chúng tôi xây thêm tầng 2 cho ngôi trường làng để họ có nơi chạy lụt trong mùa nước dâng. Chúng tôi đến khảo sát ngôi trường mới cảm thấy thật xúc động. Ngôi trường chỉ là một căn nhà cũ lụp xụp 3 gian nền đất, nơi tập trung 76 trẻ em đi học hàng ngày. Hai người chủ nhà bên cạnh ngôi trường thấy chúng tôi đến liền chạy ra. Họ nói rằng nếu chúng tôi cần thêm đất để xây cầu thang cho trường thì họ xin dâng vì sự cần thiết quá cao. Họ mong cho con cháu trong làng có thêm chỗ học, đồng thời có tầng lầu cao để dùng làm nơi chạy lụt. Dân làng đã thu góp lại được 100 triệu đồng và mong hội chúng tôi giúp cho phần còn lại của cuộc xây cất. Tôi rất muốn nhận lời nhưng không dám vì vẫn cần phải thông qua Ban Chấp Hành FHF. Khi xe chúng tôi chuẩn bị ra về thì có người chạy theo và hỏi xem chúng tôi có thể giúp gì được cho một gia đình có 2 người vừa bị chết. Tôi hỏi cặn kẽ hơn thì được biết rằng nạn nhân là một đôi vợ chồng trẻ làm nghề đánh cá tôm ở xã này. Để gia tăng thu nhập họ sử dụng bình điện xe hơi cho dây chạy vào trong nước để điện giật chết những con vật sống dưới nước quanh đó. Kết quả là bao nhiêu cá to tôm nhỏ rùa già lươn non trứng mỏng rắn rít gì ở vùng nước lân cận đều bị giết chết. Họ chỉ cần nhẹ nhàng lấy lưới vớt lên và đem bán. Lần này, không may vì bất cẩn, người chồng đã để hở tay và bị điện giật. Vợ thấy vậy chạy lại cứu chồng và cũng bị mất mạng theo. Sanh nghề tử nghiệp. Một anh tình nguyện viên nhún vai nói: “Chị thấy người mình có hai tếch không? Mình chẳng thèm câu từng con một, mình phải giết cả sông mới được.” Đây là phương cách “đánh cá” đang rất thịnh hành ở các nơi mặc dù có sự cấm đoán khắt khe của chính quyền. Hai vợ chồng xấu số này mất đi để lại 6 đứa con thơ. Mọi người đề nghị là chúng tôi nên nhận các em vào Trung tâm để nuôi. Tôi liền cho nhân viên FHF điều tra thêm vấn đề này.

Nhưng điều làm tôi băn khoăn là người dân bất chấp hậu quả tìm kế sinh nhai bằng những phương thức nguy hiểm và bất hợp pháp để rồi phải trả những cái giá thật đắt. Vì miếng ăn, nhiều người đã không màng làm thiệt hại môi trường và nguy hại đến tính mạng. Lòng buồn buồn tôi tạm biệt xã Quan Hòa để đi lên xã Thụy Biều, vùng ngày xưa có giam nhiều tù binh, để thăm những gia đình nghèo mượn tiền vốn của Hội FHF để trồng rừng cao su. Những đồi cao su xanh mạnh mẽ nhưng mùi hương khuynh diệp lúc đó như đã bay rất xa tôi. Rời Thụy Biều, chúng tôi đến một làng nhỏ ở xã Phú An. Làng này chỉ có 47 gia đình, tổng cộng dân số khoàng 350 người. Làng nhỏ, nhu cầu ít, người dân sống mộc mạc và đơn giản. Họ không xin chúng tôi giúp đỡ gì cả. Nhưng trời đất xui khiến cho chúng tôi gặp một đám tang đang trên đường ra bãi tha ma. Đường đưa người quá cố về nơi yên nghỉ đòi hỏi người ta phải đi qua một chiếc cầu xi măng rất hẹp bắc ngang con kênh nông đầy bùn ngăn trở Phú An với bên ngoài. Rất tiếc là chiếc cầu cũ đã lòi sườn sắt lại quá hẹp không đủ chỗ cho hai hàng người khiêng quan tài đi qua. Muốn dùng thuyền cũng không được vì kênh cạn không đủ nước. Thế là người phải khiêng hòm xuống kênh, lội bùn nặng nề từng bước tiến, vất vả chông chênh mãi mới qua được bên kia bờ kênh. Từ bao năm nay người chết ở vùng này đã phải gian truân như thế mới đến được nơi an nghỉ. Chúng tôi trong hội FHF nhìn nhau và biết là mình phải làm gì. Tuy không tìm ra hương vị khuynh diệp tại đất Thần kinh, tôi đã quên hết đi căn bệnh của mình và cảm thấy ngày sao quá ngắn. Trên đường về, tôi thấy bóng tôi như một trong những người khiêng quan tài. Xác nặng hai vai, chân nặng bùn, chậm rãi tiến về phía trước.

III

"Tôi làm nghề cạp đất!” Anh bạn học chung trung học với tôi ngày xưa tuyên bố một câu bình dị. Tôi chăm chú nhìn mắt anh thắc mắc. Anh giải thích chậm rãi về công việc lấy đất nơi cao đổ xuống vùng bùn lầy nước đọng—một phương cách bán đất hai lần. Đất, nói chung, không còn chỉ là chuyện nặng hồn sỏi đá. Mà là câu chuyện của một cơn sốt thời đại. Điển hình là đất ở miền Nam. Sau bao nhiêu ngày vất vả với khí hậu hai miền Trung Bắc, tôi cảm thấy rất nhẹ nhõm khi đón nhận bầu không khí rất mát và dễ chịu của sân bay Tân Sơn Nhất. Nhưng cái dễ chịu đó dần dần bị mất đi trong khung cảnh chen lấn của những dòng người và xe sôi sục trên những con đường từ sân bay về trung tâm thành phố. Tôi vào Sài Gòn để tư vấn cho một công ty Mỹ về việc lập hợp đồng với một số công ty nước ngoài hiện đang làm việc tại Việt Nam. Thế là kế hoạch đi tìm khuynh diệp của tôi bị lệch đi một chút.

Vì ỷ y, phái đoàn chúng tôi đã không lo đặt phòng trước, nên vừa đặt chân xuống phi trường là đã phải đương đầu với việc đi tìm khách sạn có đủ 5 phòng ngủ. Chúng tôi bắt đầu với những khách sạn 4 sao trên đường Nguyễn Huệ, từ Rex đến Majestic. Họ chỉ có 1 hoặc 2 phòng trống chứ không đủ 5 phòng. Chúng tôi liền quay qua khách sạn 3 sao như Bông Sen trên đường Đồng Khởi nhưng cũng vô dụng. Tất cả đều bị “sold out”. Xe phái đoàn cứ loanh quanh những con phố, hết khách sạn này đến khách sạn khác, và sau 7 nơi dừng chân, chúng tôi may mắn tìm đến một khách sạn nhỏ trên đường Thủ Khoa Huân sau chợ Bến Thành. Giá phòng là $63 Mỹ kim cho một căn phòng hẹp, không có gì sang trọng, mà cách đây hơn một năm tôi chỉ phải trả khoảng $25 Mỹ kim. Khi chúng tôi trả phòng, một người trong nhóm chúng tôi nói với cô tiếp tân là anh ta cần quay lại vào đầu tháng 3, và được cô tiếp tân cho biết là giá phòng sẽ tăng lên $70 đô một người. Sự lên giá xảy ra ngay trước mắt chỉ trong vòng có mấy ngày. Hỏi ra mới biết cái xứ của nước dừa rau má này đang lên cơn sốt đất đai và giá cả! Dù có mua bán hay không, chuyện giá cả đất đai lên cơn sốt nghe ra đến phải rùng mình. Cả nước Việt đang oằn oại trong tình trạng này. Riêng ở Sài Gòn, câu tục ngữ “bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu” đã trở thành hiện thực. Giá của cả đất lẫn vàng thi nhau vượt kỷ lục và qua một thời gian, chuyện định giá đất theo giá vàng (một phương cách quen thuộc mà xưa nay người Việt vẫn thường dùng) đã trở thành vô nghĩa. Đối với chuyện mua đi bán lại đất hoặc nhà cửa, nếu tính theo đồng đô la thì người ta có lời, lời nhiều lắm, nhưng nếu tính theo vàng thì người bán sẽ bị lỗ. Lỗ nặng. Trong những câu chuyện họp mặt, chủ đề đất đai thường hay được đề cập đến. Đất đai giờ đây là chuyện gây lo âu và đồng thời cũng gây hào hứng vì đã làm giàu cho nhiều người. Tôi phải vuốt trán khi nghe một cuộc mua bán vừa xảy ra tại Quận Nhất với giá bán 315 triệu VND (20.000 ngàn Mỹ kim) một mét vuông!

Ông thân chủ người Mỹ hỏi tôi: “Như vậy là đất ở trung tâm thành phố này còn đắt hơn cả đất của Tokyo ư?” Tuy tôi không giám khẳng định như thế nhưng cứ theo cái đà này, cái gì cũng có thể xảy ra. Anh bạn chuyên môn trong nghề đất cho tôi biết là đất trên đồi còn được giá hơn vì đất trên cao có một giá trị mới khác hơn xưa rất nhiều. Tôi hỏi thêm thì anh cho biết là ngoài nghề mua bán đất, anh còn có nghề “cạp đất”. Anh bảo tôi rằng ngày xưa anh học phổ thông bị điểm yếu, bà anh thường chê rằng “sau này mày chỉ đi cạp đất mà sống.” Anh hiện đã làm theo lời bà. Anh mua đất trên đồi rồi bốc đất lên để bán cho những công trình xây dựng vùng bùn lầy hoặc các khu vực ven bờ sông cần làm thành ngăn ngừa đất lở. Sau khi sang bằng mặt đất và gỡ được một nửa số vốn, anh lại bán miếng đất đó đi. Kết cục anh lấy lại tổng số vốn cộng thêm một món tiền lời, coi như là mua một lời hai.

Dĩ nhiên tất cả không đơn giản như vậy, cạp đất cũng đòi hỏi phải thông thạo nghề và nắm vững thông tin chính xác, chẳng hạn như phải tìm hiểu kế hoạch đầu tư của các thương gia nước ngoài và dự án khai thác giải tỏa của chính quyền địa phương như thế nào, từ đó người buôn đất mới biết nên đầu tư ở đâu thì mới nắm được phần thắng trong tay. Cơn nóng sốt đất đai này có lẽ cũng ảnh hưởng ít nhiều đến sự sôi sục kinh tế tại Việt Nam. Chuyện đầu tư của các nước ngoài vào miền Nam thật sự là một hiện tượng đáng kể. Mới từ đầu năm đến giờ mà Việt Nam đã được hứa con số đầu tư trên 15 tỷ Mỹ kim từ các nước ngoài, đứng đầu là Canada và sau đó là Singapore. Có lẽ vì cơ hội làm ăn được gia tăng quá nhanh, dân chúng đổ dồn về các thành phố nên dân số tại Sài Gòn chắc hẳn đã tăng gấp đôi so với một năm trước đây. Đi đâu và bất cứ lúc nào cũng bị kẹt xe, không phải chỉ trong giờ cao điểm. Người và người ngập đầy phố chợ. Ai ai cũng dồn về Sài Gòn hoặc về các vùng có nhiều nhà máy lớn. 

Nói đến các nhà máy lớn là tôi cảm thấy có gì đó sờ sợ. Trên đường từ thành phố đi ra các tỉnh như Bình Dương, Long An, v.v., tôi đã chứng kiến các hãng xưởng mới mọc lên thật quy mô và rầm rộ. Điểm đặc biệt là đa số các xưởng này không mang những cái tên được đặt bằng tiếng Việt. Điều này làm tôi liên tưởng đến các khu vực tô giới quốc tế ở thành phố Thượng Hải thuở xưa lúc triều đình Mãn Thanh phải nhượng đất lại cho các cường quốc Tây phương và Nhật Bản. Hình như hiện tượng đó đang xảy ra trên miền Nam Việt Nam. Mỗi một khu vực cận Sài Gòn là nơi chiếm đóng của một số công ty lớn thuộc về một nước ngoài. Đi về phía Bình Dương, bạn chỉ thấy toàn những công ty Đài Loan, cây số này nối cây số khác. Qua một khu vực khác thì thấy toàn những công ty của Hàn Quốc. Rôì đến những khu vực của Trung Quốc. Và những hãng xưởng nước ngoài cứ thế mà nối tiếp nhau. Trên đường đi Long An, nếu đi đúng vào giờ “tan xưởng” của các công ty sản xuất giày dép (trong đó có cả công ty Nike), người ta sẽ không khỏi ngạc nhiên khi thấy hàng ngàn công nhân tràn ra như biển người làm kẹt cứng đường.

Đúng ra điều này phải làm cho tôi phấn khởi, vì nếu có nhiều công ty đầu tư, thì người dân sẽ có nhiều cơ hội được công ăn việc làm, nhưng sao tôi cứ cảm tưởng như có cái gì không ổn. Tôi được dịp theo thân chủ tôi vào thăm các hãng xưởng sản xuất ny lông. Khi nhìn thấy cảnh tượng và điều kiện làm việc của các công nhân, phản ứng đầu tiên của tôi là tìm máy chụp hình. “Không! Xin chị đừng chụp.” Người hướng dẫn viên chặn tay tôi lại, không cho tôi chụp hình. Thật cả là một tiếc nuối, vì tôi muốn bạn đọc nhìn thấy tận mắt những guồng máy bóc lột công sức lao động của người dân ở đây quy mô đến cỡ nào. Mỗi tòa nhà tôi bước vào là mỗi sự ngạc nhiên, trước tiên là hơi nóng từ các máy móc ùa ập vào người tôi như muốn hâm chín da thịt, kế tiếp là tiếng sầm sập của máy nghe ù cả đôi tai. Tôi đưa tay bịt lấy lỗ tai và bàng hoàng nhìn xung quanh để nhận xét tình hình. Ái chà, nó là cả một câu chuyện.

Từ đầu bên này của tòa nhà, tôi không nhìn được đến đầu bên kia, nó là những tòa nhà khổng lồ sâu thăm thẳm. Những cuộn ny-lông to lớn sừng sộ từ trên cao tuôn chảy xuống, những máy kéo nhựa nghe như rên rỉ thay nhau hòa âm với những máy đập sình sịch chung quanh. Trong khung cảnh uy hiếp này là những công nhân nam nữ ốm tong teo, đứng thành hàng luôn tay làm những động tác giống như là đuổi theo các máy móc kia. Trong nhóm người này tôi nhận ra có những đôi mắt còn quá trẻ, quá non nớt. Bên cạnh các đôi mắt đó tôi thấy xuất hiện những nhãn hiệu quen thuộc như Albertson's, Gamestop, Pizza Hut, 99 Cents, KFC, Safeway, v.v. Hết khu vực này đến khu vực khác, tôi không thể ước lượng được có bao nhiêu những con người lam lũ kia đang làm việc trong hoàn cảnh đó. Họ làm việc trong cơn nóng ác nghiệt, trong sự ồn ào đe dọa của máy móc, không mũ bảo hiểm, không găng tay, không có gì để bảo vệ lỗ tai. Tôi không thể tưởng tượng được họ có thể làm việc như thế ngày này qua ngày khác. Thấy khó chịu, tôi muốn hỏi người quản lý công ty, nhưng không sao cất tiếng được vì tiếng máy quá ồn. Tôi chỉ có thể lên tiếng được mỗi khi đi ra hành lang để băng qua một khu xưởng khác. Tôi hỏi tại sao xưởng không có những trang bị an toàn cho công nhân. Người quản lý Đài Loan trả lời: “Lúc ban đầu chúng tôi cũng có cho họ mũ và găng tay, nhưng những người này ngoan cố lắm, họ không chịu sử dụng, nên chúng tôi dẹp đi, không dùng đến nữa.”

Tôi không thể tin vào những lời nói kia vì tôi đã biết khá nhiều về hoàn cảnh làm việc của các công nhân Việt Nam tại Đài Loan. Tôi đã nhìn thấy hình ảnh của những người bị cụt tay, cụt chân hoặc nằm chết trên giường bệnh tại nhà thương. Rồi đến hình ảnh những người cha, người mẹ với những khuôn mặt nhăn nheo thảm hại qua xứ người để nhận xác con về. Những người con này chết vì tai nạn lao động, và vì chết trước cha mẹ nên quan tài quấn khăn tang như nhắc nhở rằng họ đã không sống đủ để báo hiếu cho cha mẹ--để cho cha mẹ đã già còn phải ôm lấy đống nợ khổng lồ vì trước đó đã phải bôn ba vay mượn để có thể gửi con đi ra nước ngoài làm công!

Chuyện ở Đài Loan có lẽ cũng như chuyện của bao nhiêu người Việt đi làm mướn ở các nước khác như Mã Lai, Nam Dương, Cao Ly, Trung Quốc, Congo, hay Dubai. Gần một triệu con người bỏ sông Hương, sông Hồng và sông Cửu Long để đến đất người kiếm ăn, không hề biết rằng cứ một người thành công là có mười người phải chịu cảnh đọa đầy. Phụ nữ bị hãm hiếp là chuyện thường không mấy đáng sợ, nhưng làm sao bạn đọc có thể hình dung được có những phụ nữ bi giam cầm trong phòng tối không được mặc quần áo, hết ngày này qua ngày khác? “Nếu lúc cần, chúng vào phòng hành xác, chúng dùng cây gậy hoặc nắm đấm để làm trò chơi với cơ thể tôi.” Một nạn nhân với khuôn mặt đờ đẫn thuật lại. “Bao nhiêu ngày không có quần áo, tôi phải ngồi nép vào góc tường co đầu gối lên để có thể che chở cho thân mình.” Rồi nước mắt chị từ từ tuôn ra: “Tôi lúc đó cảm thấy mình như một con thú vật. Không còn là người nữa chị à.” Liên tưởng tới những câu chuyện tôi gom góp được từ các nạn nhân lao động ở nước ngoài, tôi cố tự nhủ rằng có lẽ môi trường làm việc ở Việt Nam không đến nỗi tệ như thế? Trong trường hợp bất đắc dĩ thì những nhân công làm việc tại quê nhà còn có thể nghỉ việc ở các công xưởng này để đi bán vé số hoặc đạp xích lô.

Sang ngày hôm sau, tôi theo thân chủ cùng một số người nữa đi qua Nam Dương để tham quan một công ty chuyên sản xuất loại một thùng giấy đặc biệt. Tôi hí hửng nghĩ rằng có thể mình sẽ tìm ra đường khuynh diệp trong những ngày ở quần đảo này. Ngoài sự ăn hối lộ trắng trợn tại phi trường, thủ đô Jakarta (dạo trước gọi là Djakarta) đón chào tôi với những hàng cây xanh thắm nhìn no con mắt. Nhưng sống ở thành phố cây xanh này cũng có lắm điều không thoải mái, mà điều khó chịu nhất là sự khám xét rất chặt chẽ khi mình đi vào các nơi công cộng. Đêm hôm đó, chúng tôi được chủ xưởng máy nổi tiếng kia mời đi ăn cơm Nhật. Một bữa ăn gần bốn tiếng đồng hồ, kéo dài từ 8 giờ tối đến gần 12 giờ khuya. Trong đời tôi có lẽ sẽ không bao giờ quên được buổi ăn sách vở này. Sau khi được xét duyệt kỹ càng, người tiếp tân dẫn chúng tôi vào một phòng riêng. Vừa ngồi xuống, một người đàn ông trung niên xuất hiện từ sau một bức màn lửng. Ông ta gập người chào rồi tự giới thiệu là một đầu bếp người Nhật nổi tiếng trong vùng, hôm đó được vinh dự phục vụ chúng tôi. Ông đến từng người để bắt tay và trao danh thiếp một cách rất trịnh trọng. Chỉ cần nghi thức rửa tay bằng nước nóng thơm mùi hoa lài rồi uống rượu khai vị trước khi ăn cũng đã kéo dài hơn bốn mươi phút. Thế rồi món đầu tiên xuất hiện. Mỗi người một chiếc ly, cao như ly uống trà làm bằng đá có nắp đậy. Tôi thận trọng mở nắp ly. Một làn khói nhẹ bay lên thơm mùi trứng. Người đầu bếp lại xuất hiện giải thích đây là canh trứng hấp. Tôi lấy muỗng sắn nhẹ từng miếng mỏng, cảm tưởng như ăn chè đậu hũ hay bánh flan. Qua món thứ hai, chúng tôi mỗi người được dọn cho một chiếc thớt gỗ có chân trên đó có hoa rau trưng bày rất mỹ thuật gây chú ý cho một điểm tròn ở góc thớt: điểm tròn đó là cá thu tươi (sashimi).

Tôi không thể nào diễn tả bằng lời hương vị của những miếng cá sống này. Ngọt, mềm, tan trong miệng. Quá lạ và quá ngon. Vị giác ăn cá sống này tôi chưa hề được cảm nhận. Nếu đây mới thật là cá tươi, thì từ trước đến giờ tôi ăn cái gì? Món thứ ba, rồi đến món thứ tư, tất cả đều rất cầu kỳ thịnh soạn và mỗi khi món ăn dọn ra, người đầu bếp lại trân trọng mời và giải thích nguồn gốc cho chúng tôi nghe. Khi món thứ năm được dọn ra, ông chủ xưởng máy Nam Dương lên giọng: “Tôi chắc hẳn quý vị chưa hề ăn món này. Đố quý vị nó là món gì?” Ông chủ xưởng là một người cao lớn vạm vỡ nhìn có uy lực, nói chuyện như một vị tướng ra lệnh cho mọi người. Trong sự lễ phép của ông có lẫn lộn một chút kiêu ngạo khác thường. Mỗi lần cụng ly, ông đều tuyên bố: “Không nơi nào tốt bằng Nam Dương.” Ông cho rằng Nam Dương thật hùng tráng và đang có đường hướng đi lên, và công ty ông là biểu hiển của sự thành công của Nam Dương. Tôi mỉm cười kín đáo. Rồi chăm chăm nhìn cái khay sứ trước mặt với những miếng gì đó thon dài như râu bạch tuộc nằm châu mình vào rong biển cuộn thành những vòng xoáy, trông rất cầu kỳ nhưng lại mộc mạc. Không ai đoán được nó là món gì. Tôi khẽ gắp một miếng bỏ vào miệng. Giòn như sụn, dai dẻo như cháy cơm nếp , ngọt bùi như khô mực, rất lạ vị và cũng rất quen thuộc. Trong mỗi miếng có bao nhiêu cảm giác khác nhau. Mọi người ai cũng đoán già đoán non, nhưng cuối cùng phải đầu hàng. Ông chủ xưởng nhìn mọi người một hồi rồi cất lên từng tiếng từng tiếng một: “Kính thưa quý khách, quý ông bà vừa thưởng thức đuôi của một con cá đuối già tuổi đời. Quý khách đã được gia tăng tuổi thọ rồi đó. Cá đuối này đã hy sinh để đem lại sự trường tồn cho việc hợp tác lâu dài của các công ty chúng ta!”

Trong lúc mọi người trầm trồ cụng ly, tôi thấy hiện ra một hình ảnh kinh hoàng của thuở xa xưa nay chợt trở về trong trí nhớ. Đó là hình ảnh đứa bé hàng xóm đứng hứng những lằn roi đuôi cá đuối quất lên tấm lưng để trần nhỏ bé đang rướm máu. Lúc đó tôi mới mười tuổi cũng bằng tuổi đứa bé kia. Tôi áp mặt vào tường để tránh phải nhìn cậu bé oằn oại trong cơn đau, khóc không thành tiếng. Ôm lấy tường, tôi cầu trời cho mưa to, thật to, để tôi không còn nghe tiếng roi cá đuối vun vút trên lưng cậu bé. Trong khoảnh khắc đó, tôi biết ngay là hợp đồng trên 10 triệu Mỹ kim của thân chủ tôi đã không thi hành được. Khách sạn sang trọng mà chúng tôi được đài thọ cũng như buổi tiệc này và chai rượu Louis XIII vừa được gọi ra là để che lấp khả năng không sản xuất được hàng như đã từng hứa hẹn. Sau một tháng cố gắng, thân chủ tôi đã phải công nhận sự tiên đoán này của tôi là chính xác. Đến món thứ 13 của đêm đó là tôi đã giơ khăn trắng lên đầu hàng. Tôi biết rõ là người chủ xưởng đãi chúng tôi buổi tiệc đó là để mua chuộc thân chủ của tôi, để thân chủ của tôi xiêu lòng gia hạn thêm thời gian cho họ thi hành hợp đồng.

Đối với tôi, họ là cái thùng giấy rỗng tuếch. Thật là một bữa ăn tội lỗi, khi tôi liên tưởng đến các em bé lem luốc ngồi bên vệ đường ngấu nghiến những miếng bánh bao. Người đầu bếp khoe với chúng tôi trái “dưa mật”. Một trái dưa không khác gì dưa tôi thấy ngoài chợ, giá độ khoảng 5 Mỹ Kim. Vậy mà trái “dưa mật” này trị giá 350 Mỹ kim vì phải trồng trong mồ hôi kỳ ảo của các cô thiếu nữ còn trinh! Tôi lắc đầu không ăn. Phải chăng người ta thừa giấy vẽ voi? Qua những diễn tiến phức tạp khi làm việc tại Nam Dương, tuy biết câu trả lời, tôi vẫn chất vấn các ông người Trung Hoa và Đài Loan là tại sao họ lại di chuyển công ty sang làm việc ở Việt Nam. Trên đường đi về Sài Gòn, mấy ông Trung Hoa giải thích cho tôi qua cô thông dịch viên: “Cô không biết là làm việc bên Trung Hoa khó đến thế nào? Luật chống ô nhiễm môi trường đòi hỏi quá nhiều ở chúng tôi. Nếu làm theo chính sách nhà nước thì lại mất hợp đồng với khách hàng bên Mỹ. Cô cứ hỏi thân chủ cô thì rõ, họ kỳ kèo từng xu thành ra giá phải thật là cạnh tranh. Thêm vào đó, các bao hàng có quai nhập vào từ Trung Quốc bị chính phủ Mỹ đánh thuế rất cao (high tariff). Nhưng hàng đi từ Việt Nam qua thì không sao. Và chỉ có ở Việt Nam chúng tôi mới không phải lo về vấn đề phá hoại môi trường.” Thân chủ tôi nhìn tôi gật gù. “Thế còn các anh ở Đài Loan thì sao? Lý do gì thúc đẩy các anh sang đất An Nam?” Anh người Đài Loan cười hả hê: “Ở đâu có tiền, thì ở đó có chúng tôi.” Anh ôn tồn giải thích là vì Việt Nam bằng lòng mua máy của họ. Máy của họ rẻ hơn máy của Đức nhiều. Chỉ trong vòng mấy tháng họ đã nhập bao đầu máy qua Bình Dương với giá trị trên 25 triệu Mỹ Kim. “Vậy máy của các anh khác với máy của Đức như thế nào?” “Thật ra thì cũng không khác là mấy. Chúng tôi mua máy của Đức về, mướn nhân công rẻ cho tháo gỡ ra, thay đổi hình dạng, bỏ vào một số bộ phận rẻ tiền, đơn giản hóa máy đi. Biến nó trở thành máy của chúng tôi. Dĩ nhiên chúng tôi cũng nói với cả Đức lẫn khách hàng là cơ bản máy này là máy Đức.” Nghe rất xuông tai nhưng tôi chắc hẳn chuyện không đơn giản như vậy. Trên máy bay nhìn ra mây, tôi chợt quyết định phải kết thúc chuyến đi này bằng cách ghé qua Hàm Tân vài ngày.

Tôi không thể trở lại Mỹ khi lòng vẫn chưa thanh thản. Tôi bỗng thấy thương cho số phận người dân nghèo Việt Nam. Những người này đầu tư làm giàu trên cái mạng quá rẻ của người dân tôi. Nghèo là một cái tội, mà nghèo từ lúc còn thơ thì cái tội còn nặng hơn, hình phạt cũng nặng hơn. Ôi những cơn đau đuôi cá đuối! Đoạn Kết Tôi đến Mỏm Đá Chim trong cơn hối hả, như đang chạy trốn một điều gì. Từ Indonesia về, tôi cố gắng hoàn tất một số công việc đã dự định trước nhưng rồi cũng không đuợc như ý muốn. Lòng bồn chồn, tôi cắn môi bấm điện thoại gọi Hoài, cô bạn khố chuối của tôi. Ngay hôm sau hai đứa tôi lên đường đến vùng đất đỏ xen cát trắng của Hàm Tân. Dinh Thầy Thím. Khi nói đến đất Hàm Tân Bình Thuận, ai ai cũng nhắc đến ngôi đền thờ Thầy Thím. Sau đêm đầu tiên dan díu với trăng và sóng biển, tôi lười biếng đợi đến lúc nắng xếch trưa hôm sau mới cùng Hoài tìm đến viếng Dinh. Khi vừa đến cổng vào sân Dinh, tôi bỗng thấy lòng hiếu kỳ nổi dậy khi đọc chữ “Thím” trên cổng và phát giác ra mình không nhớ chữ ấy khi đánh vần có cần chữ “ê” hay không. Tôi cười thầm chính mình và mỉm cười cảm nhận sự duyên dáng rất miền Nam trong cách phát âm chữ “Dinh”, chữ “Thím”. “Cô ơi mua mấy ký gạo cúng Thầy Thím đi cô! Dinh không có lấy tiền cúng dường đâu Cô. Cô mua gạo dùm cháu đi Cô!” “Cô mua chim thả phóng sinh đi Cô!” “Cô mua giọt dầu cúng Dinh đi Cô!....”

Những người bán hàng trước cổng Dinh phá vỡ sự quan sát thư thả của tôi và giục tôi phải mau mau vào Dinh để khỏi bị họ kêu réo. Có một người chạy vội vã qua mặt tôi, trên vai khệ nệ bưng một con heo quay. Tôi rời đám bán hàng và nhanh chân bước theo anh ta. Khói nhang bay cay mắt, sân Dinh gạch đỏ trải dài nắng chói. Tiếng rì rào khấn vái. Trong chánh điện người quỳ nhấp nhỏm. Và con heo quay đã được đặt lên bàn thờ. Tôi miên man nhìn đám đông và những đĩa hoa quả xôi thịt đầy ắp nằm khuất trong khói nhang mà quên rằng Hoài đã biến mất tự hồi nào. Mãi tôi mới thấy nàng ta tất tả chạy vào hai tay ôm trầu cau, nhang, dầu và gạo. “Ê, sao bồ nghĩ mình có nên mua chim thả phóng sinh không zậy?” Tôi lắc đầu nhìn Hoài: “Sao Hoài lẩm cẩm quá. Thời buổi này mà còn tin vào chuyện phóng sinh sao?”

Tôi đưa tay đỡ bịch gạo cho Hoài và tiếp tục trách cô ấy là không hiểu rõ vấn đề trong việc “phóng sinh”. Hoài cười nài nỉ: “để mình lấy chút phước đó mà.” “Hoài ơi, nếu không vì tham vọng của mấy người muốn lấy phước thì những chú chim vô tội kia đâu có bị tù tội trong những cái lồng khốn khổ đó. Hoài nghĩ xem, vì những người suy nghĩ như Hoài mà khiến cho những kẻ buôn bán kia tìm đủ cách để giam bắt loài chim.” “Ừa, bồ nói cũng phải, mấy tháng trước Hoài thả phóng sinh chim mà đến hôm nay vẫn còn bị ám ảnh.” Tôi nhìn bạn tôi thắc mắc. “Hoài dốt lắm bạn biết không? Hôm đó Hoài đi chùa bên Thủ Thiêm. Hoài cũng mua một lồng chim nhưng không để ý mấy con chim ra sao. Khấn vái xong, Hoài đến cạnh bờ hồ và thả chúng ra. Không ngờ, mấy con chim vừa bay ra khỏi lồng là rớt tõm ngay xuống hồ…dãy dụa một hồi rồi chết chìm. Nhìn chúng chết, mà Hoài chẳng làm gì được. Có biết bơi đâu mà xuống hồ.”

Bạn tôi nói một cách thiểu não như một đứa trẻ lạc đường. “Hoài đâu có biết là họ bỏ đói mấy con chim lâu quá như vậy đâu. Vừa thả ra là chúng té xuống, không bay được. Nếu biết trước, Hoài thả chúng trên đất thì chắc chúng không đến nỗi. Hoài buồn hết mấy ngày đó.”

Tôi đã chạy trốn Sài Gòn ra đây để được thảnh thơi nên cố tình tránh ánh mắt của Hoài và tránh câu chuyện trùng ruột của cô ấy. Thảo nào nàng ta mải mê ngoài cổng Dinh, chắc định mua chim để phóng sinh. Tôi chuyển câu chuyện : “Sao mình không thấy hình của Thầy Thím, Hoài hả?” “Bồ lãng xẹt, Thầy Thím đã thành thánh rồi, không cần hình nữa.” Câu nói ngây thơ của Hoài làm tôi vui trở lại. Hoài bằng tuổi tôi, một chồng hai con, đứng đầu một công ty doanh nghiệp, nhưng đối với tôi, cô ấy vẫn trẻ con hết sức. Có lẽ Hoài chỉ cư xử như vậy với tôi, vì mỗi lần gặp tôi, Hoài dường như được sống lại những ngày xưa đi học về, đạp xe dưới mưa, bụng đói meo và đầu óc hết sức là ngô nghê.

Đứng trước bàn thờ Thầy Thím, tôi cùng đám đông chắp tay trước ngực và liên tưởng đến những lời nói của cô bé nhân viên ở Mỏm Đá Chim. “Thầy Thím là hai vợ chồng bị đày tù oan về đây. Sau khi được thả ra, Thầy Thím xả mình cứu độ dân chài. Người ở đây xa gần ai cũng mang ơn của Thầy Thím. Nhưng khi hai vị này qua đời, người ta tìm không ra xác của hai vị. Người chài cho rằng hai vị đã thành thánh và từ đó thiết lập đền thờ.” Cô bé nói giọng pha chút nét đậm đà tiếng miền Trung. Đang giải thích về Thầy Thím, cô bé vội vã cắt đứt câu chuyện để đi tiếp khách mới vào tiệm ăn của khách sạn. Vì cô phải chạy lo cho nhiều bàn, nên tôi không được dịp hỏi thêm chi tiết. Lâu lâu tôi lại chặn cô lại: “Tại sao Thầy Thím lại bị tù hả em?” Rất nhiều câu hỏi của tôi tương tự như thế không có câu trả lời. “Em không biết nữa, em chỉ biết rằng Thầy Thím đã hiến dâng đời mình cho dân nghèo. Giỏi lắm và tận tụy lắm.”

Tôi nhìn lên bàn thờ lòng ấm lại: Các vị anh hùng dân tộc giờ ở mô? Tại sao các vị không ra tay cứu đỡ những kẻ đang quá sức lầm than. Đầu óc tôi nghĩ đến những chuyện vừa xảy ra ở Sài gòn. Con cảm thấy bất lực, con không sao giúp được người, nếu vậy thì cho con cảm nhận để làm gì? Tôi không để tâm cầu khẩn mà lại trách người quá cố một cách vu vơ. Tôi quay qua hỏi một người trung niên vừa khấn niệm xong. “Anh ơi, người ta đến đây để cầu chi đó anh?” Người đàn ông nhìn tôi hồi lâu rồi nhanh lời giải thích: “Nếu ai đi biển thì phải đến đây. Cầu xin Thầy Thím đi theo mình và che chở cho mình tránh bị lật thuyền”.

Chuyện sống chết, hai cõi âm dương gắn liền với đời sống người dân đây liên tục triền miên như thế. Trời nắng trong vắt, cảnh sắc hiền hòa, nhưng trong cái bình yên đó vất vưởng những đe dọa của cuộc sống. Tôi chạy đi đâu cũng không thoát. Sau khi tôi ngỏ lời cầu xin Thầy Thím tiếp tục phù hộ cho muôn người, tôi kéo Hoài đi về. Ra đến đầu cổng, tôi lại bị đám bán hàng bu lại. Những lồng chim lại được dâng lên trước mắt tôi. Nhưng lần này tôi không quay đi được mà dán mắt mình vào những đôi mắt chim bé tròn. Nhớ lời của Hoài, tôi ngần ngại không nỡ bước đi khi nghĩ rằng những chú bé chim kia đang bị giam cầm trong đói khát. Bụng tôi đầy ắp những bất mãn sẵn mang về tục phóng sinh, nhưng lòng tôi lại không muốn nhìn thấy các con vật bị hành hạ. Không biết làm sao, tôi lên tiếng trách người bán hàng: “Tôi nghĩ các chị bắt chim giam cầm như vậy là mang tội lắm.” Chị bán hàng lắc đầu ngay: “Chị ơi, sống để làm phước là cuộc sống của những người có của. Còn em nghèo thì em đành mang tội để mua gạo cho con em ăn. Không bắt được hay không bán được mấy con chim này là ngày mai con em đói.”

Tôi như một người mù quáng đưa tay mua hết hai lồng chim của chị ấy. Hoài mừng rỡ như thấy mẹ về chợ, loay hoay đốt nhang khấn vái gì đó. Thế rồi hai chị bán chim khác đến gây với chị này “Tui mời chỉ trước mà! Tại sao lại giựt khách của người ta.” Tôi giơ tay can các chị và trả giá mua hết tất cả các lồng chim. Hoài đắc chí. Biết rằng mình một lần nữa bị mắc bẫy nhưng những hành động của tôi lúc đó căn bản không còn suy tính nữa. Tôi lưu lại Mỏm Đá Chim thêm một ngày nữa rồi lên đường trở lại Sài Gòn. “Tại sao lại đặt tên này cho khách sạn vậy em?” Trước khi giã từ, tôi không quên hỏi với theo. “Ở đây đất lành chim đậu chị ạ. Chim tứ phương kéo về đây….” Để rồi bị bắt, để rồi được thả. Tôi lẩm bẩm lên xe. Tôi từ giã những hàng thùy dương nghiêng ngả và dường như không còn cảm thấy cái nóng gay gắt nhiệt đới nữa.

Đường về thành phố chói chang với những bảng hiệu “Cơm Phở” lác đác đây đó bên đường. “Bác tài ơi, xin dừng xe lại!” Tôi nhảy ngay xuống xe khi xe vừa tấp vào lề đường. Hàng khuynh diệp phất phơ trước gió dưới bầu trời xanh ngắt như kêu gọi tên tôi. Hoài và người tài xế chắc hẳn nghĩ tôi không được bình thường. Tôi mon men mãi và khó khăn lắm mới xuống dốc vệ đường để đến gần mấy cây khuynh diệp. Vội vàng tôi tước hết lá này đến lá khác, vò vẫm rồi hít hà. Gíó lộng. Hương khuynh diệp man mác, dễ chịu nhưng không hồi sinh. Hoài cũng cố gắng leo xuống rồi hỏi tôi đủ điều. Làm sao tôi giải thích cho cô ấy hiểu được. Tôi hít vào đầy gió và ngắt một cành non trước khi trở lại xe. Tôi ép cành này vào cuốn sách đang đọc dở. Những bảng hiệu “Cơm Phở Bình Dân” lại chạy ngược qua xe tôi. Đâu đó vấn vương nỗi niềm trống vắng. Chạy đi đâu đi nữa rồi tôi cũng phải quay về với thực tại. Sài Gòn mấy hôm trước đã làm tôi quá buồn, tôi đã phải rời nó ra Hàm Tân thế rồi cũng phải quay về với nó. Đúng là “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”.

Mấy ngày trước đây, tôi dự định khi đi Indonesia về sẽ ghé qua thăm Viện Ung Thư Bướu cạnh nhà thương Nguyễn Văn Học cũ, rồi nhà thương dưỡng lão và viện trẻ em khuyết tật ở Thị Nghè. Nghĩ sao tôi lại đến trại khuyết tật trước. Các phòng của trung tâm hôm đó tối om và các em nằm lây lất trên sàn nhà. Tôi ngồi đâu là bị muỗi cắn đến đó. Vậy mà các em nằm ngoắt ngoẻo, vất vưởng nơi đây hết năm này qua năm khác. Trong mười mấy năm nay tôi đã ghé qua đây mấy lần, nhưng lần đầu tiên năm 1990 là lần tôi chứng kiến cảnh tượng đau buồn thê thảm nhất. Các em bé lúc đó bị cột vào thành nôi để giữ cho các em khỏi leo ra ngoài. Mỗi lần tôi ngừng đến nôi nào là lại có một em nhón người từ trong nôi vươn ra để ôm lấy tôi—một người hoàn toàn xa lạ mà các em chưa hề thấy. Ở đây, nếu các em được cho ăn ngày hai bữa và được thay tã là tốt lắm rồi. Thì giờ đâu mà các cô bảo mẫu ôm ấp ve vuốt các em? Nên khi thấy hơi người đi qua là các em vồ lấy một cách thèm khát. Giờ đây môi trường sống của các em đã có phần hơn trước, không mấy em bị trói cột, nhưng sao tôi vẫn thấy lòng héo hắt. Tôi ôm lấy một em đầu ghẻ lở có khuôn mặt tươi sáng nhưng hai chân bị teo lại không đi được. Em cười rạng rỡ thích thú nhưng tôi không sao ngồi lâu được vì muỗi đã thịt hết đôi chân trần của tôi. Ngay lúc đó Soeur giám đốc trung tâm mời tôi lên văn phòng nói chuyện. Sau một lúc hàn huyên về chương trình và hướng đi của trung tâm, Soeur nhờ tôi giúp một việc: “Thưa Sơ, Sơ cần gì xin Sơ cứ nhắn nhủ, nếu em không làm được em sẽ đi nhờ người khác giúp.” Tôi ân cần và hết lòng. “Ồ nếu chị nói vậy thì tốt quá!” Ngay lúc đó Soeur vẫy tay ra lệnh ai đó. Trong chớp mắt hai đứa bé khập khễnh đi từng bước vào phòng.

Ôi, thôi chết tôi rồi! “Hai em này đang hết sức cần xe lăn chị ạ. Các em đi học tội nghiệp và vất vả lắm. Chị thấy hai chân gỗ này không? Nếu các em đi lâu thì thịt ở đầu chân cụt bị sưng lên.” Trước mặt tôi là một em trai và một em gái độ khoảng từ mười đến mười ba tuổi, đang vịn vào bàn để không phải dựa vào chiếc chân gỗ trọc cũ mèm. Tôi nghẹn lời không nói được một câu vì sực nhớ ra là cách đây ba năm về trước mình đã ngồi đây và đã nói chuyện về hai em này, cũng câu chuyện chân gỗ, câu chuyện xe lăn, những lời hứa hẹn tôi trao cho Soeur. Ôi, thế mà tôi đã quên các em. Ba năm trước khi quay lại Mỹ tôi có đi xin xe lăn để rồi cuối cùng xin không được, tôi lại lao đầu lo cho những trại mồ côi khác, những trẻ em bị chất độc da cam, và tôi dần dần quên đi hai em này. “Dạ, Sơ để đó em lo. Em sẽ kiếm xe lăn cho các em.” Tôi lí nhí nói trong miệng mà thấy hổ thẹn vô cùng. Soeur gật gù cám ơn mà không hề biết rằng tôi chính là người hứa “lèo” của ba năm trước. Tôi phân vân nhưng không dám thú nhận lỗi của mình trước mặt các em. Tôi không muốn các em phải thất vọng khi nhìn tôi. Mọi người đã không nhận ra tôi. Tôi bước ra khỏi trung tâm mà lòng thắt lại.

Ba năm trời các em phải chịu đựng vì tôi. Tôi từ đó bỏ quyết định đi thăm viện dưỡng lão cũng như viện ung thư bướu. Để rồi đi Hàm Tân như để chạy trốn lầm lỗi của mình. Trăng Hàm Tân đã khoan hồng cho tôi nhưng hình như Thầy Thím còn trách tôi. Nghĩ đến đây, tôi rút cành khuynh diệp để đưa lên mũi. Xin Thầy Thím tha cho con.

IV. Đoạn Kết

Ba ngày sau tôi về đến San Jose với một chương trình công việc đặt ra thật dài, vừa văn phòng luật, vừa viết văn, vừa chuyện cứu trợ dân nghèo. Bao nhiêu người đang chờ tôi, bao nhiêu dự án cần phải giải quyết. Song, tôi vẫn phải quay lại làm công việc hàng ngày. Trong một buổi họp tôi đang dự ở San Francisco thì điện thoại reo. Tôi nhìn xuống máy thì thấy số của mẹ tôi. Tôi vội vàng chạy ra khỏi phòng họp để nghe điện thoại: “Con về đi, bé Thi đang nằm bệnh viện, nguy cập lắm!”

Tôi bàng hoàng lấy áo choàng rồi chạy ra bến xe điện (BART Station). Thi là con gái đỡ đầu của tôi, cháu sắp gần hai tuổi, mắt xanh, da trắng, tóc quăn nâu óng ánh. Mẹ của bé và tôi cùng lớn lên với nhau từ lúc chín tuổi. Chúng tôi thương nhau và lo cho nhau như chị em ruột. Tôi là người đỡ cho cô ấy sanh và đón Thi chào đời. (Cô ấy cũng là người chăm nom và lo cho con tôi như con ruột. Con tôi gọi cô ấy là “Má”). Vì yêu thơ nên tôi đặt tên cho bé là “Thi”.

Xe điện chạy gầm thét. Điện thoại lại reng. “Em hả, anh không biết nói sao. Thi chết rồi em à!” Tiếng chồng tôi nói chậm rãi trong điện thoại. “No!” Tôi hét lên. Chồng tôi giải thích thêm sự việc nhưng tôi đã không còn nghe rõ mấy. Cái gì là bé bị cảm, rồi nhiễm trùng phổi, rồi Kaiser bảo về đi không sao cả, rồi trong tích tắc hôm trước hôm sau, chúng tôi mất bé. Mãi sau tôi mới bình tĩnh lại và nhờ anh đón tôi ở sân ga. Anh bảo tôi: “Anh sẽ đón em nhưng mình phải về đón bà ngoại của Thi để đưa bà lên nhà thương với cháu.”

Ôi có cơn đau nào bằng cơn đau này, chắc Bác đang khổ lắm. “Bác vẫn chưa biết chuyện em à. Anh nghĩ em cần phải nói cho Bác biết.” Trời ơi, nói thế nào đây. Biết bắt đầu làm sao? Mẹ của bạn tôi ra mở cửa. Mắt cụ đỏ hoe: “Em nó không có nhà con à, nó đưa bé Thi đi nhà thương rồi.” Tôi cố gắng cầm nước mắt: “Bác ạ, cháu đến để đưa Bác vào nhà thương thăm bé Thi.” Cụ mắt sáng mừng rỡ, vội vàng đi lấy khăn lấy áo. Khi lên xe xong và sau khi cài dây an toàn hẳn hòi cho cụ, tôi mới ôm lấy cụ và nói cho cụ biết. Cụ khóc đập người vào ghế. Chúng tôi đi như chạy trong các hành lang của nhà thương. Khi đến được phòng ICU thì tim tôi như ngừng đập. Bé Thi của tôi đang nằm đó như một thiên thần đang ngủ say. Lời thơ Nguyễn Bính bỗng đâu vang vang: “…cạn giòng nước mắt còn đâu khóc người….”

Chiều hôm ấy tôi lái xe đưa hai vợ chồng bạn tôi từ nhà thương về. Họ như những người mất hồn không một lời trao nhau. Khi bước vào nhà, tôi như người điên, chạy tứ phía để vơ vét tất cả các đồ chơi của bé Thi đang còn nằm ngổn ngang khắp nhà. Tôi càng giấu chúng đi thì chúng lại càng tạo nên những tiếng động, của máy móc và ca nhạc chợt bật lên bởi dòng điện chạm. “I love you, you love me….” Mỗi lần như thế thì bạn tôi lại nấc lên nức nở. Cô ôm lấy tôi: “we lost our daughter!”

 Ngày hôm sau, tôi và bố mẹ của Thi bôn bả đi mua đất để làm mộ cho bé. Tìm mãi mới chọn được một chỗ có bóng cây tươi mát. Ngày chôn Thi, bé nằm trong chiếc áo đầm trắng lỗng lẫy mà tôi và Hoài khổ công lắm mới mua được cách đây khoảng mười ngày trước ở Sài Gòn. Chiếc áo mua để chuẩn bị cho tiệc sinh nhật của Thi, nhưng tôi đâu có ngờ rằng tôi mua áo để chôn bé. Trong lúc thầy đang làm lễ để hạ huyệt, tôi buông tay thả bong bóng lên trời cho bé. Nhìn theo bong bóng bay, tôi mới sực nhận ra là tôi và mộ của bé đang nằm dưới bóng cây khuynh diệp!

 Tôi òa lên khóc như chưa từng được khóc. Đáng lẽ ra, tôi phải là người ra đi chứ không phải Thi. Tôi xin thêm những ngày sống để làm gì, khuynh diệp đang theo tôi hay theo Thi? Khuynh diệp che chở cho ai? Trong tiếng chuông và tiếng khóc, tôi với tay nắm lấy một mớ lá khuynh diệp. Như cái máy, tôi vò nát và đưa lá lên mũi. Mùi khuynh diệp nồng hăng đến nỗi làm tôi muốn sặc.

Thế là thế. Bây giờ tôi mới nhận thấy khuynh diệp ở đây to và đồ sộ, và mùi hương thì không một cây ở Đông Nam Á nào mạnh bằng. Như vậy nghĩa là sao? “Đi đâu loanh quanh cho đời…” chạm đời. Khi tôi in hai tập của bài này lên báo thì một người thân chủ cũ của tôi gọi để xin vào thăm tôi. Anh là người chỉ có một chân khập khễnh đi từng bước từng bước một, hai tay ôm gói nấm linh chi và bao nhiêu thuốc khác. “Trời ơi, những thứ này đắt tiền lắm, Jenny không dám nhận đâu anh ạ.” “Không, luật sư cần phải uống, luật sư cần phải sống.” Anh nói một cách khẳng định như ra lệnh.

 Sau khi Thi nằm xuống, bố mẹ Thi yêu cầu trao tất cả tiền phúng điếu cho hội Friends of Huế Foundation để giúp các trẻ em khác. Mộ của Thi chưa xanh thì chúng tôi nhận được tin từ miền Trung là có 6 em nhỏ đang cần mổ tim cấp bách. Nếu không thì các em sẽ không thoát hiểm. Trong đó có một em cũng cùng ngày tháng sinh của Thi. Mỗi một cuộc mổ tim tốn khoảng 1000 Mỹ kim. Mẹ Thi yêu cầu Hội ra tay ngay. Chúng tôi liền lập tức chuyển số tiền phúng điếu khoảng 5000 Mỹ kim cộng thêm 1000 nữa của một gia đình khác cho để cứu sáu em này. Và chúng tôi cũng sẽ lo luôn thủ tục mua xe lăn cho hai em ở Thị Nghè. 

Trên đường khuynh diệp, tôi đã đối diện những cánh chim đói khát gãy đường bay, những cặp chân gỗ khập khễnh, những lằn roi cá đuối, những bờ vai nhỏ quắp co trong cơn lạnh, những da thịt bị xâm lăng và hành hạ, những cái chết vì sinh nhai, những xác thân vô tội bị hành quyết trên thân cây, những bàn tay run rẩy nhận gạo, những nụ cười nhân ái, những ánh mắt đầy tình người, những vòng tròn nhân quả ... Tôi đã đi suốt một vòng tròn. Đã tưởng mất mùi hương có tác động hồi sinh. Để tìm lại được nó ở nơi bất ngờ nhất. Ở điểm bắt đầu. 

Đường khuynh diệp là thế. Không dài nhưng rất tròn. Vòng tròn tử sinh. Vòng tròn tiếp trợ. Đây là vòng tròn của những người tìm người để thấy mình, tìm ra rồi lại cho đi, cho đi nhưng vẫn còn đó, còn đó lại chia cho lẫn nhau, một chút tình người, một chút tương lân, một nỗi cảm thông, đơn sơ mà quyết liệt. Tôi đã đi tìm khuynh diệp ở vùng quá khứ. Nhưng khuynh diệp vẫn ở quanh tôi, trong hiện tại. Và trên vùng tương lai. Của tôi. Và của mọi người. Jenny Đỗ (6/2008)